Việt Nam có cơ hội trở thành trung tâm công nghiệp bán dẫn toàn cầu
Việc đặt mục tiêu xây dựng nhiều nhà máy sản xuất chip trong thời gian ngắn cho thấy quyết tâm rất lớn của Chính phủ và các nhà đầu tư. Mục tiêu đầy tham vọng nhưng khả thi vì Việt Nam có nhiều lợi thế phát triển ngành công nghiệp bán dẫn.
Phóng viên Báo Điện tử Chính phủ đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Khắc Lịch, Cục trưởng Cục Công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông, Bộ TT&TT về chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2050.
Công nghiệp bán dẫn nằm trong bức tranh có tính toàn cầuLà cơ quan quản lý và trực tiếp đề xuất, tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định 1018/QĐ-TTg ngày 21/9/2024 về Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam, xin ông cho biết những điểm nổi bật của Chiến lược này?
Ông Nguyễn Khắc Lịch: Thứ nhất về tầm nhìn, Chiến lược này đặt ra một tầm nhìn dài hạn đến năm 2050, thể hiện sự quyết tâm của Chính phủ trong việc xây dựng một ngành công nghiệp bán dẫn mạnh mẽ và bền vững. Đây là điểm khác biệt trong tư duy chiến lược quốc gia của Việt Nam.
Chiến lược các nước hầu hết hoạch định cho một giai đoạn 5 năm. Cách tiếp cận của Việt Nam lần này khác với các cách tiếp cận trước đó, là kết hợp hoạch định ngắn hạn với tầm nhìn dài hạn đến năm 2050.
Thứ hai về con đường phát triển, Chiến lược đề ra con đường phát triển ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam từ nay đến năm 2030, tầm nhìn 2050 theo công thức C = SET + 1.
Trong đó, C là chip (chip bán dẫn); S là Specialized (chuyên dụng, chip chuyên dụng); E là Electronics (điện tử, công nghiệp điện tử); T là Talent (nhân tài, nhân lực) và + 1 là Việt Nam (Việt Nam là điểm đến mới an toàn của chuỗi cung ứng toàn cầu về công nghiệp bán dẫn).
Đây là điểm nổi bật, khác biệt trong tư duy xây dựng Chiến lược của Việt Nam, cụ thể như sau:
Về chip bán dẫn: Công nghiệp bán dẫn, chip bán dẫn đã có mặt trong hầu hết các thiết bị, mọi mặt của đời sống xã hội, đã, đang và sẽ thay đổi, định hình thế giới; ảnh hưởng to lớn tới an ninh kinh tế và an ninh quốc phòng. Tư tuy của Chiến lược là công nghiệp bán dẫn nằm trong một bức tranh rất lớn và có tính toàn cầu, đó là chuyển đổi số.
Về chip chuyên dụng: Việt Nam tập trung nghiên cứu, thiết kế, sản xuất sản phẩm bán dẫn chuyên dụng. Đây là điểm khác biệt trong tư duy chiến lược quốc gia của Việt Nam. Việt Nam là nước đi sau, tiếp cận theo hướng không chạy đua về đầu tư và công nghệ mà làm chip chuyên dụng, là loại chip không đòi hỏi công nghệ quá cao, quy trình sản xuất đơn giản, chi phí thấp hơn so với chíp đa dụng; tận dụng lợi thế cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu thị trường ngày càng tăng cao của chip bán dẫn ứng dụng vào từng ngành, lĩnh vực, cá nhân cụ thể.
Về công nghiệp điện tử: Việt Nam phát triển công nghiệp bán dẫn cùng công nghiệp điện tử, công nghiệp chuyển đổi số, mà trọng tâm là AI – công nghệ cốt lõi của cách mạng công nghiệp 4.0. Đây là điểm khác biệt trong tư duy chiến lược quốc gia của Việt Nam. Hầu hết các nước khác đều xây dựng chiến lược thuần túy về công nghiệp bán dẫn. Việt Nam phát triển công nghiệp bán dẫn song hành với một số lĩnh vực công nghiệp đột phá, trong đó đặc biệt là công nghiệp điện tử, chuyển đổi số.
Về nguồn nhân lực, nhân tài: Việt Nam phát triển nhân lực là bước đi đầu tiên, là điểm đột phá, là mục tiêu chiến lược, trở thành một trung tâm (hub) về nhân lực phục vụ công nghiệp bán dẫn toàn cầu. Chú trọng phát huy hiệu quả nhân tài, Việt Nam là điểm đến của nhân tài bán dẫn toàn cầu, tăng cường số lượng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực công nghiệp bán dẫn.
Việt Nam có lợi thế đặc biệt
Theo ông, Việt Nam có những lợi thế gì trong phát triển công nghiệp bán dẫn so với các quốc gia trong khu vực như Malaysia, Thái Lan, Singapore?
Ông Nguyễn Khắc Lịch: Việt Nam có những lợi thế và khó khăn riêng trong việc phát triển công nghiệp bán dẫn so với các quốc gia trong khu vực như Malaysia, Thái Lan và Singapore.
Về lợi thế, Việt Nam có những lợi thế đặc biệt về địa chính trị, là điểm đến an toàn và tiềm lực phát triển công nghiệp bán dẫn hàng đầu so với một số quốc gia trong khu vực. Đây là cơ hội cho Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng của ngành công nghiệp bán dẫn, điện tử toàn cầu.
Cụ thể, Việt Nam có hệ thống chính trị ổn định và an ninh xã hội được đảm bảo, điều này mang lại nhiều lợi thế cho các doanh nghiệp đầu tư và hoạt động. Với mức độ an toàn cao, các rủi ro như bất ổn chính trị, khủng bố hay phá hoại tài sản nhà máy được giảm thiểu đáng kể, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển công nghiệp bán dẫn, điện tử.
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước đã đặt ưu tiên hàng đầu cho việc phát triển công nghiệp bán dẫn, thông qua nhiều Nghị quyết ở cấp chính trị cao nhất với những chính sách đặc thù, cụ thể để ưu tiên phát triển cho công nghiệp bán dẫn Việt Nam.
Việt Nam có chi phí sinh hoạt, giá lao động, giá điện thấp hơn so với các quốc gia trên, bên cạnh đó với những chính sách hỗ trợ từ Chính phủ về miễn thuế thu nhập, thuế đất, thuế xuất nhập khẩu, … giúp giảm chi phí cho các doanh nghiệp bán dẫn, điện tử đầu tư tại Việt Nam.
Việt Nam nằm ở trung tâm của khu vực đang chiếm tới 70% sản lượng sản xuất của ngành công nghiệp bán dẫn toàn cầu; nằm trong nhóm các nước có tốc độ phát triển nhanh nhất; là quốc gia có quan hệ đối tác chiến lược với nhiều cường quốc bán dẫn.
Việt Nam cũng là một trong những nước có số lượng FTA nhiều nhất trên thế giới và nhiều nhất trong khu vực với 13 FTA trong khi Singapore có 6 FTA và Malaysia chỉ có 7, thuộc nhóm quốc gia dẫn đầu trong tăng trưởng thương mại toàn cầu, theo đó tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu các sản phẩm điện tử nói chung và vi mạch bán dẫn nói riêng.
Việt Nam cũng có tiềm năng về trữ lượng đất hiếm, ước đạt khoảng 20 triệu tấn. Việt Nam là 1 trong 16 quốc gia đông dân nhất trên thế giới, quy mô thị trường nội địa tương đối lớn, Việt nam còn có lợi thế về tỷ lệ dân số trẻ, có năng lực về STEM (Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Toán học), có khả năng đáp ứng nhanh chóng nhu cầu nhân lực để phát triển ngành công nghiệp bán dẫn.
Đây là những yếu tố quan trọng để Việt Nam có cơ hội trở thành một trong các trung tâm công nghiệp bán dẫn, điện tử toàn cầu.
Chúng ta có khó khăn như nào trong phát triển công nghiệp bán dẫn không, thưa ông?
Ông Nguyễn Khắc Lịch: Hạn chế, khó khăn riêng của Việt Nam trong phát triển công nghiệp bán dẫn có thể kể đến như:
Thiếu hụt nhân lực chất lượng cao. Mặc dù có nguồn nhân lực dồi dào, Việt Nam vẫn đang đối mặt với thách thức thiếu hụt các chuyên gia cao cấp trong lĩnh vực bán dẫn, đặc biệt là trong các khâu nghiên cứu, thiết kế và quản lý sản xuất.
Hạn chế về hạ tầng kỹ thuật và công nghệ: So với Singapore và Malaysia, hạ tầng kỹ thuật và công nghệ phục vụ cho ngành bán dẫn đi trước Việt Nam hàng chục năm. Việt Nam vẫn đang trong quá trình nâng cao năng lực về nghiên cứu và phát triển (R&D).
Hạn chế về tài chính và khả năng đầu tư: Các dự án phát triển ngành bán dẫn đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn, đặc biệt là trong việc xây dựng nhà máy sản xuất và phát triển công nghệ tiên tiến. Khả năng thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là từ khu vực tư nhân và các nhà đầu tư nước ngoài, vẫn là một thách thức đối với Việt Nam so với các nước.
Hạn chế năng lực chuỗi cung ứng nội địa về công nghiệp bán dẫn. Việt Nam còn thiếu ngành công nghiệp phụ trợ cho công nghiệp bán dẫn, điện tử và cần thời gian và nguồn lực để xây dựng được một chuỗi cung ứng có khả năng cạnh tranh với các quốc gia khác trong khu vực.
5 nhóm giải pháp và 38 nhiệm vụ chi tiết
Vậy, các giải pháp trọng tâm để chúng ta đáp ứng được các mục tiêu như trong Chiến lược đề ra là gì, thưa ông?
Ông Nguyễn Khắc Lịch: Chiến lược đã đề ra 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp và 38 nhiệm vụ cụ thể được giao cho các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp liên quan để triển khai đáp ứng các mục tiêu đề ra. Cụ thể:
Phát triển chip chuyên dụng: Tập trung vào nghiên cứu và phát triển công nghệ lõi, sản phẩm chip chuyên dụng (AI, IoT) và xây dựng cơ sở hạ tầng dùng chung cho nghiên cứu, phát triển công nghệ bán dẫn; Phát triển hệ sinh thái công nghiệp bán dẫn trong nước và kết nối với các đối tác quốc tế, thúc đẩy sử dụng chip trong các lĩnh vực như nông nghiệp, công nghiệp tự động hóa, điện tử tiêu dùng; Xây dựng cơ chế ưu đãi để đầu tư vào nhà máy chế tạo chip bán dẫn phục vụ nghiên cứu và sản xuất; Hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất chip theo mô hình tập trung để tiết kiệm chi phí và khuyến khích nghiên cứu.
Phát triển công nghiệp điện tử: Tập trung vào nghiên cứu và phát triển các thiết bị điện tử thế hệ mới tích hợp chip chuyên dụng; Ưu tiên ngân sách nhà nước mua sắm thiết bị điện tử nội địa để thúc đẩy thị trường; Hỗ trợ các tập đoàn, doanh nghiệp sản xuất thiết bị điện tử phát triển ra quốc tế, đồng thời thúc đẩy liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài; Phát triển hệ sinh thái công nghiệp phụ trợ và thúc đẩy doanh nghiệp bán dẫn, điện tử Việt tham gia chương trình phát triển thương hiệu quốc gia.
Phát triển nguồn nhân lực và thu hút nhân tài: Triển khai đề án phát triển nguồn nhân lực bán dẫn, tập trung vào đào tạo kỹ sư, chuyên gia trong lĩnh vực điện tử, viễn thông và công nghệ thông tin; Hỗ trợ kinh phí đào tạo, nghiên cứu và phát triển cơ sở hạ tầng đào tạo, phát triển các trung tâm dữ liệu, siêu máy tính phục vụ ngành bán dẫn; Xây dựng cơ chế thu hút nhân tài, kết nối chuyên gia quốc tế và Việt Nam, tạo mạng lưới đổi mới sáng tạo; Thúc đẩy hợp tác cung cấp nhân lực với các quốc gia thiếu hụt nhân lực bán dẫn.
Thu hút đầu tư trong lĩnh vực bán dẫn: Xây dựng cơ chế ưu đãi cho các dự án đầu tư công nghệ cao, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước và tư nhân liên doanh với các đối tác nước ngoài; Thành lập quỹ hỗ trợ đầu tư, cơ chế “làn xanh” để thúc đẩy xuất nhập khẩu nguyên liệu, linh kiện liên quan đến bán dẫn; Đầu tư phát triển hạ tầng, năng lượng tái tạo phục vụ sản xuất bán dẫn.
Một số nhiệm vụ và giải pháp khác gồm: Thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia và tổ chuyên gia tư vấn phát triển ngành bán dẫn; Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật, hỗ trợ nghiên cứu và phát triển từ các quỹ quốc gia; Thúc đẩy hợp tác quốc tế, xây dựng quy định về xử lý chất thải và sản xuất xanh trong lĩnh vực bán dẫn.
Mục tiêu đầy tham vọng nhưng khả thi
Trong nội dung Chiến lược có đề cập đến mục tiêu trong giai đoạn 2 (2030-2040) là xây dựng được 2 nhà máy sản xuất chip bán dẫn, đến giai đoạn 3 (2040-2050) xây dựng được 3 nhà máy sản xuất chip bán dẫn. Chúng ta có thể thực hiện được mục tiêu này với những điều kiện như thế nào, thưa ông?
Ông Nguyễn Khắc Lịch: Việc đặt ra mục tiêu xây dựng 2 nhà máy sản xuất chip bán dẫn trong giai đoạn 2 (2030-2040) và 3 nhà máy trong giai đoạn 3 (2040-2050) là một mục tiêu đầy tham vọng nhưng hoàn toàn khả thi.
Tham vọng được hiểu là khát khao, mong muốn đạt được những mục tiêu lớn lao, vượt xa điều kiện hiện tại và đòi hỏi sự nỗ lực vượt bậc. Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam cần phải vượt qua nhiều thách thức và tận dụng tối đa các cơ hội.
Chiến lược đề ra mục tiêu Việt xây dựng 1 nhà máy sản xuất chip bán dẫn quy mô nhỏ đến năm 2030. Đây là điểm khác biệt trong tư duy chiến lược quốc gia của Việt Nam.
Hầu hết các nước đi sau, tương đồng với Việt Nam tập trung vào công đoạn hạ nguồn là đóng gói, kiểm thử của công nghiệp bán dẫn. Việt Nam tham gia vào các công đoạn bao gồm sản xuất chip bán dẫn.
Đầu tư xây dựng 1 nhà máy sản xuất chip bán dẫn quy mô nhỏ, có cơ chế ưu đãi, hỗ trợ đầu tư, tài chính đặc biệt của nhà nước cho dự án xây dựng nhà máy. Thực hiện cơ chế mở để các doanh nghiệp có thể sử dụng năng lực của nhà máy.
Đây là nhiệm vụ chiến lược giúp kỹ sư Việt Nam biết cách làm chip bán dẫn, tiếp cận được công nghệ quản lý, vận hành sản xuất tiên tiến, phát triển hệ sinh thái, tạo nền tảng để Việt Nam phát triển ngành công nghiệp chip nội địa trong tương lai, bảo đảm chủ động sản xuất bán dẫn cho quốc phòng, an ninh trong mọi tình huống.
Tại sao đây là một mục tiêu tham vọng nhưng khả thi, thưa ông?
Ông Nguyễn Khắc Lịch: Tham vọng là xây dựng nhà máy sản xuất chip – một dự án đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn, công nghệ cao và đội ngũ nhân lực chất lượng cao. Việc đặt mục tiêu xây dựng nhiều nhà máy trong thời gian ngắn cho thấy quyết tâm rất lớn của Chính phủ và các nhà đầu tư.
Khả thi vì Việt Nam có nhiều lợi thế để phát triển ngành công nghiệp bán dẫn như nguồn nhân lực dồi dào, chi phí sản xuất thấp, chính sách hỗ trợ của Chính phủ và thị trường nội địa lớn. Với sự đầu tư đúng mức và các chính sách phù hợp, Việt Nam hoàn toàn có thể đạt được mục tiêu này.
Những điều kiện cần thiết để đạt được mục tiêu là triển khai hiệu quả, đồng bộ các nhiệm vụ Chiến lược, tập trung những nhiệm vụ chính bao gồm: thu hút các nguồn vốn đầu tư lớn từ trong và ngoài nước để xây dựng các nhà máy sản xuất chip hiện đại; tiếp cận và làm chủ các công nghệ sản xuất chip tiên tiến trên thế giới.
Đồng thời, đào tạo và thu hút một đội ngũ kỹ sư, chuyên gia có trình độ cao trong lĩnh vực bán dẫn; hạ tầng kỹ thuật hiện đại: đồng bộ, đáp ứng các yêu cầu khắt khe của ngành sản xuất chip; tạo ra một môi trường kinh doanh ổn định, minh bạch, thu hút đầu tư; tăng cường hợp tác với các quốc gia có nền công nghiệp bán dẫn phát triển để chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực và thu hút đầu tư.
Cuối cùng là phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, tạo điều kiện cho các dự án khởi nghiệp trong lĩnh vực bán dẫn phát triển, tạo ra những ý tưởng và sản phẩm mới, thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, công nghiệp điện tử để tạo đầu ra sản phẩm của các nhà máy sản xuất bán dẫn.
Xin cảm ơn ông!
Theo Báo Điện tử Chính phủ