Sửa Nghị định 24/2012/NĐ-CP: Cần mở rộng quyền nhập khẩu vàng của doanh nghiệp
Để tránh gia tăng thủ tục hành chính, chi phí tuân thủ và gây khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, một số ý kiến đề nghị, cần mở rộng quyền nhập khẩu vàng…
Theo đó, để khắc phục những vấn đề của thị trường và vá “lỗ hổng” của Nghị định 24/2012/NĐ-CP, Ngân hàng Nhà nước đề xuất bãi bỏ khoản 3 Điều 4. Cụ thể, xóa bỏ cơ chế Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng. Cùng với đó, sửa đổi, bổ sung khoản 6 Điều 4 với quy định hoạt động sản xuất vàng miếng là hoạt động kinh doanh có điều kiện và phải được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép…

Đáng nói, tại Điều 14 Dự thảo quy định, hoạt động nhập khẩu vàng miếng theo hướng kiểm soát nhiều tầng nấc, bao gồm: Giấy phép xuất nhập khẩu vàng; Hạn mức xuất nhập khẩu hàng năm; Giấy phép xuất nhập khẩu cho từng lần.
Nhìn nhận về đề xuất đã nêu, không ít ý kiến cho rằng, việc đồng thời yêu cầu các loại giấy phép nói trên sẽ tạo ra nhiều “giấy phép con”, làm gia tăng thủ tục hành chính, chi phí tuân thủ và gây khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Tại văn bản góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng vừa qua, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi theo hướng đơn giản hoá thủ tục đồng thời vẫn đáp ứng yêu cầu quản lý.

Cụ thể, theo VCCI, giấy phép nhập khẩu vàng chỉ cấp cho các doanh nghiệp sản xuất vàng. Trong khi đó, các doanh nghiệp sản xuất vàng đã do Ngân hàng Nhà nước cấp phép, quản lý chặt chẽ. Do đó, việc yêu cầu thêm một giấy phép xuất nhập khẩu riêng là không cần thiết, mang tính chất “giấy phép lồng trong giấy phép”, làm tăng thêm thủ tục, chi phí không cần thiết.
Không chỉ có vậy, việc yêu cầu phải có giấy phép cho từng lần, trong khi đã khống chế hạn mức cả năm là không hợp lý. Bởi, trong bối cảnh thị trường vàng có nhiều biến động và chịu tác động mạnh từ yếu tố trong và ngoài nước, việc chờ cấp phép từng lần có thể khiến doanh nghiệp bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, giảm tính linh hoạt trong vận hành.
“Quy định về cấp phép từng lần có thể suy đoán nhằm giúp cơ quan quản lý có thông tin về hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp, chủ động trong việc điều hành. Việc này có thể thực hiện thông qua việc yêu cầu cơ quan Hải quan liên thông dữ liệu với Ngân hàng Nhà nước, hoặc yêu cầu doanh nghiệp báo cáo định kỳ về tình hình thực hiện hạn mức xuất nhập khẩu. Những biện pháp này vừa đảm bảo hiệu quả giám sát, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp chủ động trong hoạt động kinh doanh”, VCCI góp ý.
Liên quan đến vấn đề này, tham gia góp ý, Phó Chủ tịch Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam (VGTA) – Đinh Nho Bảng cũng cho rằng, các bên đáp ứng điều kiện phù hợp cần phải được cấp phép nhập khẩu vàng trực tiếp để tránh tình trạng chi phí của doanh nghiệp đội giá lên cao.
Việc đội giá này diễn ra qua mấy khâu: Đội giá khi ngân hàng thương mại nhập về, nếu mua vàng theo tiêu chuẩn quốc tế đắt hơn các loại vàng khác từ 2 đến 5%. Với hai lần đội giá như vậy, vàng Việt Nam khi xuất khẩu sẽ có chi phí cao hơn hẳn so với các nước khác đang tự do hóa thị trường vàng, vì vậy giảm khả năng cạnh tranh.
Vì vậy, đại diện VGTA đề nghị, xem xét bỏ quy định về cấp giấy phép từng lần xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng, nhập khẩu vàng nguyên liệu.
Bởi, nếu đề xuất được đưa ra sẽ tăng giấy phép con, tăng thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp; Kìm hãm hoạt động xuất khẩu vàng miếng; Làm mất cơ hội sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì diễn biến thị trường vàng thế giới biến động liên tục, chịu tác nhiều yếu tố; nếu chờ thủ tục cấp phép từng lần (ngoài giấy phép cấp hạn mức hàng năm) thì doanh nghiệp sẽ mất cơ hội xuất khẩu hoặc nhập khẩu với giá tốt nhất; ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất và hoạt động xuất khẩu.
Đồng thời, đại diện VGTA cũng đề nghị, chỉ quy định Ngân hàng Nhà nước cấp hạn mức xuất nhập khẩu vàng miếng, nhập khẩu vàng nguyên liệu hàng năm, phân bổ cho từng doanh nghiệp ngay từ quý I đầu năm theo nguyên tắc công khai, minh bạch; không phát sinh giấy phép con.
Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp chủ động lựa chọn thời điểm và khối lượng (trong hạn mức) để nhập khẩu hoặc xuất khẩu nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Doanh nghiệp thực hiện báo cáo định kỳ về tình hình thực hiện hạn mức xuất nhập khẩu vàng với Ngân hàng Nhà nước; việc điều chỉnh bổ sung hạn mức do Ngân hàng Nhà nước xem xét, quyết định.
Ngoài những vấn đề đã nêu, đại diện VGTA cũng bày tỏ, Nghị định này nên thống nhất về quan điểm, định hướng và thể hiện chính sách nhằm khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh vàng trang sức, trong đó ưu tiên cho xuất khẩu; và từng bước làm giảm nhu cầu mua bán, nắm giữ vàng miếng trong dân bằng nhiều giải pháp kinh tế mang tính thị trường.
“Ví dụ, bằng chính sách thuế (không đánh thuế nếu người dân bán vàng trang sức; và đánh thuế nếu bán vàng miếng để đầu cơ); đồng thời với các giải pháp đa dạng hóa thương hiệu vàng miếng cũng như tăng nguồn cung vàng miếng; khuyến khích phát triển thị trường vàng trang sức, qua đó tác động tâm lý để người dân chuyển dần từ tích trữ đầu cơ vàng miếng sang mua bán vàng trang sức và từng bước bình thường hóa, để người dân không còn quan tâm đến vàng miếng như các nước trong khu vực và trên thế giới”, đại diện VGTA bày tỏ.
Đồng thời cho rằng, Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh vàng; không phải là cơ quan sản xuất kinh doanh vàng miếng. Nếu Ngân hàng nhà nước tham gia thương trường (tổ chức sản xuất vàng miếng) thì sẽ chịu sự quản lý của cơ quan nào? Và dẫn tới chồng chéo nhiệm vụ vừa thực hiện kinh doanh, vừa thực hiện quản lý Nhà nước.
Được biết, theo Chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ mới đây, chỉ còn vài ngày nữa là hạn chót để Ngân hàng Nhà nước trình Chính phủ Nghị định sửa đổi Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng (trước 15/7/2025).
Gia Nguyễn – Diễn đàn Doanh nghiệp