Nhìn từ kinh nghiệm Hàn Quốc để nâng tầm công nghiệp hỗ trợ Việt Nam
Hàn Quốc từng là quốc gia nghèo tài nguyên nhưng đã vươn lên thành cường quốc công nghiệp nhờ chiến lược phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT) đồng bộ giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Bài học từ mô hình “Chính phủ dẫn dắt – Tập đoàn lớn làm nòng cốt – Doanh nghiệp nhỏ tham gia chuỗi giá trị” mang lại nhiều gợi mở để Việt Nam thúc đẩy CNHT, nâng cao năng lực cạnh tranh và tiến tới công nghiệp hóa bền vững.
Liên kết chặt giữa Nhà nước và doanh nghiệp: Chìa khóa thành công của Hàn Quốc
Theo TS Cấn Văn Lực và nhóm nghiên cứu BIDV, Hàn Quốc – một trong “bốn con rồng châu Á” – bắt đầu đẩy mạnh công nghiệp hóa từ thập niên 1970 thông qua hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu (GVC). Trong giai đoạn này, Chính phủ nước này đã dành ưu đãi đặc biệt cho các Chaebol – những tập đoàn lớn như Samsung, Hyundai, LG, Daewoo và SK – để phát triển nhanh, hướng tới xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu.
Nhân viên Samsung đang làm việc trên dây chuyền sản xuất
Tuy nhiên, Hàn Quốc không chỉ dựa vào các tập đoàn lớn mà còn buộc họ phải chuyển giao một phần sản xuất linh kiện, phụ tùng cho các doanh nghiệp nhỏ hơn. Mô hình “doanh nghiệp vệ tinh” này đã tạo nên sự lan tỏa mạnh trong nền kinh tế, giúp công nghiệp hỗ trợ phát triển nhanh trong giai đoạn 1970–1980.
Một bước ngoặt lớn là khi Chính phủ Hàn Quốc ban hành Luật Xúc tiến thầu phụ năm 1975, yêu cầu doanh nghiệp lớn phải mua linh kiện từ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNVVN) theo danh mục chỉ định, thay vì tự sản xuất. Nhờ chính sách này, tỷ lệ DNVVN tham gia chuỗi cung ứng tăng từ 19,7% năm 1976 lên tới 70% vào năm 1990. Đây được xem là một trong những nền tảng vững chắc giúp công nghiệp hỗ trợ Hàn Quốc phát triển bền vững và vươn ra toàn cầu.
Đến năm 2005, Chính phủ tiếp tục triển khai Chiến lược phát triển nguyên liệu và linh phụ kiện, thúc đẩy CNHT ngành ô tô và điện tử. Samsung và Lucky Gold Star (tiền thân của LG) được chỉ định làm doanh nghiệp hạt nhân, còn các doanh nghiệp nhỏ hơn đảm nhiệm vai trò sản xuất linh kiện thay thế nhập khẩu – tạo nên hệ sinh thái sản xuất khép kín, có tính lan tỏa cao.
Từ hỗ trợ tài chính đến đổi mới sáng tạo: Nền tảng phát triển CNHT hiện đại
Bên cạnh chính sách liên kết, Hàn Quốc còn xây dựng cơ chế hỗ trợ tài chính cho DNVVN thông qua Quỹ bảo lãnh tín dụng quốc gia (KODIT) – một tổ chức tài chính công chuyên giúp doanh nghiệp nhỏ tiếp cận vốn vay mà không cần tài sản thế chấp. Cùng với đó, Chính phủ áp dụng ưu đãi thuế, phí và các gói vay lãi suất thấp để hỗ trợ đầu tư công nghệ, đổi mới quy trình sản xuất.
Một yếu tố đặc biệt khác là hệ thống trung tâm ươm mầm doanh nghiệp và khởi nghiệp sáng tạo, trong đó khoảng 80% được đặt tại các trường đại học và viện nghiên cứu. Mô hình này giúp kết nối giữa khoa học – công nghệ và doanh nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho đổi mới sáng tạo và thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu.
Hàn Quốc cũng ban hành Luật Thúc đẩy đổi mới công nghệ đối với DNVVN, đơn giản hóa thủ tục đăng ký kinh doanh, mở rộng quyền sử dụng đất đai và tài sản để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư sản xuất. Đặc biệt, từ năm 2014, nước này triển khai Chiến lược Đổi mới sản xuất 3.0 (Manufacturing Innovation 3.0) nhằm phát triển công nghệ sản xuất thông minh, hướng tới xây dựng 10.000 nhà máy thông minh vào năm 2020.
Tiếp đó, năm 2019, Hàn Quốc công bố Kế hoạch “Manufacturing Renaissance Vision” – tầm nhìn dài hạn tái định hướng ngành công nghiệp theo hướng thông minh, xanh và thân thiện môi trường. Chính phủ đầu tư mạnh cho R&D trong các lĩnh vực cốt lõi như IoT, cảm biến thông minh, robot và dữ liệu lớn, đưa nền công nghiệp nước này bước sang giai đoạn mới – sản xuất dựa trên tri thức và công nghệ số.
Bài học cho Việt Nam: Chính sách đồng bộ, liên kết chặt và đổi mới sáng tạo
Theo TS Cấn Văn Lực, thành công của Hàn Quốc cho thấy vai trò quyết định của chính sách công nghiệp tổng thể và sự liên kết chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và viện nghiên cứu. Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm này để xây dựng chiến lược phát triển CNHT theo hướng:
Hoàn thiện chính sách tài chính, tín dụng và thuế ưu đãi cho doanh nghiệp trong nước;
Khuyến khích liên kết giữa doanh nghiệp lớn và DNVVN nhằm từng bước tham gia chuỗi cung ứng của các tập đoàn FDI;
Xây dựng trung tâm đổi mới sáng tạo, ươm mầm doanh nghiệp công nghệ;
Tăng đầu tư cho R&D, chuyển giao công nghệ và phát triển nhân lực chất lượng cao.
Khi có chính sách đồng bộ và triển khai hiệu quả, công nghiệp hỗ trợ Việt Nam sẽ có cơ hội bứt phá, trở thành nền tảng cho các ngành công nghệ cao, bán dẫn, cơ khí chính xác và điện tử, góp phần đưa Việt Nam tiến gần hơn tới mục tiêu trở thành quốc gia công nghiệp hiện đại.
Văn Tiêm