Hoàn thiện cơ chế PPP hàng không
Chia sẻ với DĐDN, Chuyên gia Hàng không Phạm Ngọc Sáu cho rằng, việc hoàn thiện cơ chế là yêu cầu tiên quyết để đầu tư PPP hàng không hấp dẫn.
LTS: Tại Thông báo số 100/TB – VPCP về Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà yêu cầu Bộ GTVT hoàn thiện báo cáo kết quả nghiên cứu Đề án xã hội hóa, đầu tư theo phương thức PPP trước ngày 30/4/2023.
– Dù được đánh giá là nhiều tiềm năng nhưng thực tế sự góp mặt của tư nhân trong lĩnh vực hạ tầng sân bay chưa như kỳ vọng. Ngoài một số nhà đầu tư tham gia đầu tư xã hội hóa dự án nhà ga hành khách Đà Nẵng, Cam Ranh mới chỉ có duy nhất dự án sân bay tư nhân được thực hiện là Vân Đồn do Sun Group đầu tư. Vậy, lý do của tình trạng kém hấp dẫn nguồn lực xã hội vào đầu tư mới cũng như đầu tư cải tạo cảng hàng không hiện hữa là gì, thưa ông?
Trong thời gian vừa qua, các nhà đầu tư không thực sự mặn mà với việc đầu tư vào mảng hạ tầng hàng không. Những lý do chính làm cho việc đầu tư vào cảng hàng không kém hấp dẫn bao gồm:
Thứ nhất, quy định pháp lý và chính sách hỗ trợ chưa rõ ràng. Các quy định pháp lý liên quan đến PPP cũng như chính sách hỗ trợ cho dự án PPP vẫn chưa rõ ràng và còn nhiều hạn chế, dẫn đến các nhà đầu tư không có đủ động lực để tham gia.
Thứ hai, rủi ro đầu tư. Trong khi các nhà đầu tư thường đánh giá rủi ro và tiềm năng lợi nhuận của các dự án đầu tư thì các dự án đầu tư sân bay thường có rủi ro cao và yêu cầu đầu tư lớn, đòi hỏi các nhà đầu tư phải có kinh nghiệm cả về quản lý an toàn hàng không và khả năng khai thác sân bay tốt. Tuy nhiên, nhiều nhà đầu tư tư nhân tại Việt Nam vẫn chưa có kinh nghiệm trong lĩnh vực này.
Thứ ba, khó khăn về pháp lý và thủ tục đầu tư. Quy trình đầu tư mới hay đầu tư cải tạo sân bay ở Việt Nam rất phức tạp và thường liên quan đến nhiều bộ, ngành. Các thủ tục pháp lý về hàng không cũng thường rất dài và phức tạp, điều này khiến cho các nhà đầu tư khó khăn trong việc đầu tư và vận hành khai thác.
Thứ tư, kinh phí đầu tư lớn. Đầu tư vào một sân bay mới hay cải tạo sân bay hiện hữu đều đòi hỏi một nguồn vốn đầu tư lớn. Nếu ngân hàng không cho vay đủ, các nhà đầu tư sẽ khó khăn trong việc đầu tư. Trong khi đó, các ngân hàng thường không cho vay để đầu tư vào xây dựng sân bay, do rủi ro đầu tư cao, khó đảm bảo lợi nhuận.
Thứ năm, độ tin cậy của đối tác công. Do các dự án PPP thường liên quan đến các đối tác công, nhiều nhà đầu tư sợ rằng đối tác này có thể không đáp ứng được các cam kết của mình hoặc có thể can thiệp vào quá trình triển khai dự án.
– Như vậy việc hoàn thiện cơ chế là yêu cầu tiên quyết để đầu tư PPP hàng không hấp dẫn hơn, cụ thể cần giải quyết được những vướng mắc nào về chính sách, thưa ông?
Để đầu tư PPP hàng không hấp dẫn hơn, cần giải quyết một số vướng mắc chính sách. Cụ thể, về cơ chế pháp lý, cần có hệ thống pháp lý rõ ràng, minh bạch để hỗ trợ cho việc đầu tư PPP hàng không. Việc hoàn thiện và đưa ra những quy định cụ thể về pháp lý, quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia PPP là rất quan trọng để đảm bảo tính minh bạch và công bằng cho các bên tham gia.
Về tài chính, đây là một trong những thách thức lớn nhất đối với đầu tư PPP. Cần có sự hỗ trợ về tài chính, đặc biệt là cho các dự án quy mô lớn như xây dựng sân bay. Ngoài ra, cần đảm bảo tính khả thi tài chính và lợi nhuận của dự án để thu hút các nhà đầu tư quan tâm.
Về quản lý dự án, đây là yếu tố quan trọng để đảm bảo hiệu quả và tiến độ của dự án. Cần có những quy định và cơ chế quản lý hợp lý, minh bạch và rõ ràng. Việc đồng bộ thời gian hoàn thành đưa các công trình vào khai thác là hết sức quan trọng.
Về điều kiện đầu vào, để đầu tư PPP vào xây dựng, cải tạo cảng hàng không, cần có những điều kiện đầu vào thích hợp như đất đai, hạ tầng giao thông, tiện ích công cộng, v.v. để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của dự án.
Về điều kiện kinh doanh, việc đầu tư PPP vào xây dựng sân bay còn phụ thuộc vào điều kiện kinh doanh của ngành hàng không trong nước và quốc tế. Cần đảm bảo tính cạnh tranh và sự phát triển bền vững của ngành hàng không để thu hút đầu tư PPP vào xây dựng, cải tạo cảng hàng không.
Việc hoàn thiện cơ chế là yêu cầu tiên quyết để đầu tư PPP hàng không hấp dẫn hơn. Để thu hút các nhà đầu tư, chính phủ cần tạo ra một môi trường đầu tư ổn định, thân thiện với doanh nghiệp, và cung cấp đầy đủ thông tin và hỗ trợ cho các dự án PPP. Ngoài ra, các bên tham gia cần hợp tác chặt chẽ với nhau để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả của dự án. Việc hoàn thiện cơ chế PPP sẽ góp phần đẩy mạnh phát triển hạ tầng giao thông, đặc biệt là hàng không, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
– Bên cạnh vấn đề cơ chế, cần hay không một cơ chế về “vốn mồi”, để đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư, thưa ông?
“Cơ chế vốn mồi” hay còn gọi là “mô hình vốn rủi ro chia sẻ” cũng giúp thu hút nhà đầu tư vào các dự án hàng không. Tuy nhiên, việc áp dụng cơ chế vốn mồi cũng có thể gặp phải một số khó khăn. Ví dụ, nếu rủi ro của các nhà đầu tư tư quá cao, họ có thể không muốn tham gia dự án, khiến cho cơ chế này không hiệu quả.
Ngoài cơ chế vốn mồi, còn có nhiều phương thức khác để đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư. Ví dụ như việc tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, cam kết hỗ trợ cho phát triển đường bay, chính sách ưu đãi cho các sân bay mới, cải thiện kết nối giao thông, mở rộng các dịch vụ có liên quan như logistics…
Tóm lại, việc áp dụng cơ chế vốn mồi là một phương thức hữu hiệu để đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư, nhưng cần phải đánh giá kỹ lưỡng các rủi ro và lợi ích của việc áp dụng cơ chế này.
– Còn về phần đầu hạ tầng kết nối cảng hàng không, đảm bảo tính kết nối, cắt giảm chi phí cũng như để việc thu hút đầu tư hàng không khả thi hơn, thưa ông?
Hạ tầng kết nối cảng hàng không về bản chất là hạ tầng giao thông, thường được quản lý và điều hành bởi nhà nước. Tùy thuộc vào năng lực và mong muốn của nhà đầu tư, hạng mục này có thể giao cho chủ đầu tư thực hiện và bàn giao lại cho nhà nước. Tuy nhiên, cần phải đưa vào chủ trương đầu tư và có sự tham gia, giám sát của cơ quan nhà nước trong suốt thời gian thi công để có thể nghiệm thu.
– Theo ông, còn cần những giải pháp nào để thu hút đầu tư xã hội vào hàng không? Có bài học của quốc gia nào mà Việt Nam có thể học hỏi, thưa ông?
Để thu hút đầu tư xã hội vào lĩnh vực hàng không, có một số giải pháp. Trước hết, cần có các chính sách hỗ trợ tài chính để thu hút đầu tư xã hội vào lĩnh vực hàng không, bao gồm các khoản vay ưu đãi, giảm thuế và các hình thức hỗ trợ khác.
Chính phủ cần đầu tư vào các hạ tầng liên quan đến hàng không, bao gồm đường băng, đường lăn, cơ sở hạ tầng vận chuyển và hệ thống giao thông kết nối.
Đồng thời, Chính phủ cần tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn cho các nhà đầu tư quốc tế, bao gồm việc cải thiện hạ tầng và tăng cường các cơ chế bảo vệ đầu tư. Với các nhà đầu tư quốc tế có kinh nghiệm về khai thác cảng hàng không kết hợp với nhà đầu tư trong nước, việc vận hành sân bay sẽ hiệu quả hơn rất nhiều.
Ngoài ra, Việt Nam có thể học hỏi từ các quốc gia có kinh nghiệm trong việc thu hút đầu tư xã hội vào lĩnh vực hàng không như Trung Quốc, Ấn Độ và Malaysia. Ví dụ điển hình như ở Trung Quốc, Chính phủ nước này đã triển khai nhiều chính sách để thu hút đầu tư PPP vào xây dựng sân bay như cung cấp các khoản tài trợ và vay vốn ưu đãi cho các dự án PPP. Ngoài ra, đưa ra một số chính sách hỗ trợ pháp lý cho các dự án đầu tư xã hội.
Chính phủ Trung Quốc cũng khuyến khích các địa phương hợp tác để xây dựng sân bay PPP. Bằng cách kết hợp sức mạnh giữa các địa phương, các dự án PPP sân bay có thể được triển khai nhanh chóng hơn. Đặc biệt, đưa ra các chính sách khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ sân bay, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các sân bay và đảm bảo chất lượng dịch vụ được cải thiện. Các chính sách này đã giúp Trung Quốc thu hút đầu tư PPP vào xây dựng sân bay với nhiều dự án thành công, như Sân bay Quốc tế Lục Phật ở thành phố Lâm Châu và Sân bay Thành Đô ở thành phố Thành Đô.
– Xin cảm ơn ông!