Xử lý nợ xấu: Cần khuôn khổ pháp lý bảo vệ sinh kế tối thiểu

Khi xử lý nợ xấu, nhà ở duy nhất và công cụ lao động thiết yếu sẽ không bị thu giữ, đề xuất này của Ngân hàng Nhà nước được nhiều ý kiến đồng tình ủng hộ…

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang lấy ý kiến dự thảo nghị định quy định điều kiện thu giữ tài sản bảo đảm khi xử lý nợ xấu. Trọng tâm của dự thảo là: ngân hàng chỉ được phép thu giữ tài sản nếu đó không phải là “nhà ở duy nhất” hoặc “công cụ lao động chủ yếu” của người vay.

Xử lý nợ xấu: Cần khuôn khổ pháp lý bảo vệ sinh kế tối thiểu
Ngân hàng Nhà nước đang lấy ý kiến dự thảo nghị định quy định điều kiện thu giữ tài sản bảo đảm khi xử lý nợ xấu. Ảnh minh hoạ

Theo dự thảo, “nhà ở duy nhất” là căn nhà duy nhất thuộc quyền sở hữu, nơi người vay sinh sống ổn định; còn “công cụ mưu sinh” được định nghĩa là phương tiện tạo thu nhập chính, được lượng hóa theo mức lương tối thiểu vùng. Nghĩa vụ chứng minh thuộc về người vay ngay từ khi ký hợp đồng bảo đảm. Nếu không chứng minh được, tài sản mặc nhiên không được bảo vệ.

Đề xuất này xuất phát từ thực tế nợ xấu nội bảng đã vượt 3% vào cuối năm 2024, trong khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực khiến tiến trình xử lý nợ gặp nhiều trở ngại. NHNN muốn vạch ra giới hạn pháp lý mới trong hoạt động tín dụng, bảo đảm an sinh tối thiểu cho người dân, song song với việc duy trì kỷ luật thu hồi nợ.

Trao đổi với Diễn đàn Doanh nghiệp xung quanh đề xuất này, luật sư Nguyễn Đức Biên – Giám đốc Công ty Luật TNHH Đại La đánh giá, đây là bước tiến quan trọng khi pháp luật đặt ra vùng cấm trong xử lý nợ. Theo ông, việc loại trừ nhà ở duy nhất và công cụ lao động chủ yếu không chỉ phù hợp với quyền có nơi ở, quyền lao động được Hiến pháp ghi nhận mà còn tiệm cận thông lệ quốc tế.

Tuy nhiên, để tránh bị lợi dụng, tiêu chí xác định cần thật chặt chẽ. Ông nhấn mạnh, khái niệm “nhà ở duy nhất” không thể chỉ dựa vào giấy tờ sở hữu mà phải được kiểm chứng qua dữ liệu cư trú, đất đai và tình trạng tài sản của hộ gia đình. Với “công cụ mưu sinh”, cũng cần cơ chế định lượng rõ ràng, chẳng hạn dựa trên mức thu nhập tối thiểu hoặc tỷ lệ sử dụng cho mục đích lao động.

“Ngoài ra, quy trình thu giữ nên có một “vòng kiểm” độc lập, bao gồm thông báo trước và thời gian khắc phục, để giảm khiếu kiện và bảo vệ cả hai phía”, luật sư Biên nói.

Đồng quan điểm, luật sư Lê Thị Nhung – Giám đốc Công ty Luật L&A Legal Experts cũng cho rằng, dự thảo đã dung hòa lợi ích giữa ngân hàng và người vay, nhưng điểm mấu chốt nằm ở tính liên thông của pháp luật. Theo bà, nghị định cần đồng bộ với Bộ luật Dân sự, Nghị định 21/2021 về xử lý tài sản bảo đảm và Nghị định 99/2022 về đăng ký biện pháp bảo đảm.

Nếu tài sản thuộc diện loại trừ, ngân hàng phải dừng quyền thu giữ và chuyển sang các biện pháp khác qua tố tụng hoặc thỏa thuận. Thêm vào đó, thông tin về tài sản loại trừ nên được đưa vào hệ thống đăng ký biện pháp bảo đảm để công khai, minh bạch, giúp các bên thứ ba nhận diện rủi ro. Bà cũng nhấn mạnh cần cơ chế giải quyết tranh chấp khẩn cấp khi hai bên bất đồng, nhằm tránh đình trệ xử lý nợ. Đồng thời, phải có chế tài đủ mạnh để xử lý cả người vay gian dối lẫn ngân hàng lạm quyền.

“Để nghị định có hiệu lực thực sự, không chỉ cần tinh thần nhân văn mà còn phải đi kèm với tiêu chí đo lường cụ thể, thủ tục minh bạch và chế tài nghiêm minh”, luật sư Lê Thị Nhung nói.

Cũng trao đổi với Diễn đàn Doanh nghiệp, nhiều chuyên gia pháp lý cũng đánh giá, đề xuất của NHNN không làm suy yếu kỷ luật tín dụng mà thiết lập một giới hạn bảo vệ trong xử lý nợ xấu. Người vay sẽ không bị đẩy vào cảnh mất nơi ở, mất phương tiện sinh nhai, trong khi ngân hàng vẫn có cơ chế thu hồi tài sản bảo đảm khác.

Điều quan trọng là tiêu chí rõ, thủ tục minh bạch, chế tài nghiêm minh. Khi những yếu tố này được đảm bảo, khung pháp lý mới sẽ vừa bảo vệ quyền sống tối thiểu cho người dân, vừa tạo sự ổn định và dự báo cho toàn bộ hệ thống tín dụng.

Nguyễn Giang – Diễn đàn Doanh nghiệp

Bài Viết Liên Quan

Để lại một bình luận

Back to top button