Tạo dựng niềm tin với TPDN: Vì sao đề xuất NHNN bảo lãnh trái phiếu?
VAFI chính thức chia sẻ chi tiết về các đề xuất với 3 loại trái phiếu gần như tuyệt đối an toàn cho nhà đầu tư, bao gồm trái phiếu của NHTM do NHNN bảo lãnh.
LTS: Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo các bộ, ngành liên quan nghiên cứu đề xuất của VAFI về các giải pháp tăng cường huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế với lãi suất huy động giảm mạnh.
Để làm rõ hơn đề xuất nói trên của VAFI, DĐDN đã có cuộc trao đổi cùng ông Nguyễn Hoàng Hải – Tổng thư ký Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam.
Tương tự huy động vốn tiết kiệm
– Đề xuất của VAFI nhận được nhiều ý kiến khác nhau, đặc biệt về trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) do các ngân hàng thương mại phát hành, không phân biệt Nhà nước hay tư nhân, và cần được bảo lãnh bởi NHNN để thu hút người dân tham gia mua. Ông có thể chia sẻ rõ hơn về điều này?
Thứ nhất, trái phiếu ngân hàng mà chúng tôi đề xuất NHNN bảo lãnh không phân biệt ngân hàng có vốn Nhà nước hay tư nhân, chủ yếu dựa vào hiệu quả hoạt động kinh doanh. Do đó trong đề xuất của VAFI lên Chính phủ và các cơ quan chức năng, chúng tôi nêu rõ là “loại trái phiếu do các ngân hàng kinh doanh hiệu quả, tình hình tài chính lành mạnh phát hành”, và “loại trái phiếu này có đặc tính sau: Những ngân hàng như tiêu chí nói trên luôn hội đủ các điều kiện niêm yết trên sàn HOSE; Ngoài ra, cần thêm các tiêu chuẩn như phải có tỷ suất lợi nhuận tương đối, tỷ lệ nợ xấu thấp và NHNN cần quy định tỷ lệ, khối lượng phát hành trái phiếu cho nhà đầu tư cá nhân;
Thứ hai, đưa ra các qui định trên để bảo đảm rằng trong mọi tình huống, các ngân hàng có đủ khả năng thanh toán lãi và vốn gốc mua trái phiếu cho các nhà đầu tư cá nhân”.
Còn NHNN bảo lãnh là để bảo chứng tăng thêm niềm tin cho người dân tin tưởng, từ đó thu hút huy động.
– Trên thực tế, các NHTM vẫn đã và đang phát hành trái phiếu khá tốt so với mọi doanh nghiệp khác. Vậy đề xuất trên còn nhằm mục đích nào khác, thưa ông?
Hiện nay, các NHTM đều huy động vốn ngắn hạn, kể cả những ngân hàng thuộc diện yếu kém, kiểm soát, đang tái cơ cấu. Họ vẫn huy động được vốn vì họ gần như được NHNN mặc nhiên “bảo lãnh”. Về lý thuyết, các NHTW sẽ không bảo lãnh tiền tiết kiệm mà người gửi chỉ được bảo hiểm theo mức quy định. Tuy nhiên tại nước ta thì NHNN sẽ đảm bảo chi trả, an toàn vốn cho người dân trong mọi tình huống (thông điệp của Thống đốc NHNN sau vụ SCB).
Do đó, chúng ta đặt câu hỏi tại sao không bảo lãnh TPDN do ngân hàng phát hành, cũng là một hình thức huy động vốn, nhưng là vốn trung và dài hạn? Đây chính là điều kiện hấp dẫn (ngoài yếu tố lãi suất) để người dân yên tâm khi lựa chọn mua trái phiếu.
Tạo tính lan tỏa về lãi suất
– Nếu mặt bằng lãi suất tiết kiệm còn cao, thì lãi suất trái phiếu của NHTM không dễ xuống thấp, để đảm bảo tính hấp dẫn của nó, thưa ông?
Khi NHTM phát hành TPDN trung và dài hạn khối lượng lớn, với lãi suất hợp lý, cũng giải tỏa được áp lực thanh khoản để tiến đến hạ lãi suất trên thị trường, từ đó tạo sức lan tỏa.
Ở khía cạnh khác, tôi nghĩ là người dân sẽ cân nhắc và có ưu tiên nhất định với kênh sinh lời nhưng bảo toàn vốn cao. Chưa kể trong hệ thống, cũng có những tổ chức khó khăn hơn về huy động vốn, giữ lãi suất cao, do đó nếu không có sản phẩm huy động vốn thấp hơn, thì làm sao hạ lãi suất đầu ra?
– Theo ông, cần có giải pháp gì thêm để tăng tính hấp dẫn của trái phiếu ngân hàng do NHNN bảo lãnh, nếu có loại hình trái phiếu này trong nay mai?
Bên cạnh đặc điểm gần như tuyệt đối an toàn, cần giảm tối đa mọi thủ tục phát hành, điều kiện để được mua loại trái phiếu này. Nó phải đơn giản như sản phẩm gửi tiết kiệm hoặc tương tự như vậy. Ngoài ra nếu được, tạo thuận lợi để loại trái phiếu này lên sàn giao dịch TPDN riêng lẻ.
– Nếu theo đề xuất của VAFI có phá vỡ cơ chế thị trường khi các NHTM tự nhân lại được Nhà nước bảo lãnh trên thị trường, thưa ông?
Như tôi trao đổi, các NHTM đang kinh doanh bình thường, kể cả tư nhân hay Nhà nước đều được NHNN bảo lãnh an toàn tiền gửi tiết kiệm cho dân.
Ngoài ra, mỗi một quốc gia có đặc thù vận hành riêng, chẳng hạn như ở Việt Nam, thị trường vốn của chúng ta chưa hoàn thiện, còn nhiều rủi ro, thì chúng ta phải có sản phẩm đặc thù để xóa đi nỗi sợ rủi ro đó của người dân, đảm bảo cho người dân khi tham gia thị trường.
Sau những khủng hoảng, người dân lo sợ không phân biệt được đâu là TPDN xấu, đâu là TPDN tốt, thì chúng ta phải tạo điều kiện để người dân yên tâm lựa chọn, như vậy mới bước đầu tạo niềm tin vững chắc, từ đó thúc đẩy thị trường TPDN phát triển.
– Xin cảm ơn ông!