Ngành cơ khí Việt Nam nắm cơ hội vàng từ dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam
Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam không chỉ mở ra một kỷ nguyên mới cho hạ tầng giao thông Việt Nam mà còn là cơ hội chiến lược để ngành cơ khí chế tạo và công nghiệp hỗ trợ trong nước nâng cao năng lực, làm chủ công nghệ và tham gia sâu vào chuỗi cung ứng công nghiệp đường sắt.
Ảnh minh họa
Quy mô khổng lồ của dự án mở ra thị trường hàng tỷ USD cho ngành cơ khí
Quy hoạch mạng lưới đường sắt quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2050, đặt mục tiêu mở rộng từ 7 lên 25 tuyến, tổng chiều dài 6.354km, trong đó có dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam dài 1.541km và tuyến Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng dài 417km. Để đáp ứng nhu cầu vận hành, ngành đường sắt cần đầu tư khoảng 28,7 triệu mét ray, 11.680 bộ ghi, 46 triệu thanh tà vẹt, cùng hàng nghìn đầu máy và toa xe. Giai đoạn đến 2045, riêng tuyến khổ 1.435mm sẽ cần 160 đầu máy, 10.144 toa xe; tuyến khổ 1.000mm cần 150 đầu máy và 2.000 toa xe.
Dự báo, việc đầu tư phát triển hạ tầng đường sắt đến 2035, tầm nhìn 2050, sẽ tạo ra thị trường khoảng 89 tỷ USD, trong đó thiết bị chiếm 34,1 tỷ USD, bao gồm 9,8 tỷ USD cho đầu máy và toa xe, 24,3 tỷ USD cho hệ thống thông tin tín hiệu và thiết bị khác. Đây là cơ hội chưa từng có để các doanh nghiệp cơ khí chế tạo Việt Nam tham gia trực tiếp vào chuỗi cung ứng và nội địa hóa sản phẩm.
Công nghiệp hỗ trợ – Chìa khóa để doanh nghiệp Việt làm chủ công nghệ
Hiện nay, Việt Nam có hơn 3.100 doanh nghiệp cơ khí chế tạo với hơn 53.000 cơ sở sản xuất, doanh thu ngành đạt hơn 1,7 triệu tỷ đồng, tạo việc làm cho trên 1,2 triệu lao động. Nhiều doanh nghiệp đã tham gia chuỗi cung ứng ô tô, xe máy và sản xuất thiết bị công nghiệp nặng. Trong ngành đường sắt, nội địa hóa toa xe hàng đạt 70%, toa xe khách đạt 80% giá trị; riêng đầu máy, các cụm chính như động cơ, máy phát điện vẫn phải nhập khẩu, nhưng các chi tiết cơ khí như khung vỏ, thùng nhiên liệu, đường ống gió và thùng nước có thể sản xuất trong nước.
Phó Tổng giám đốc Tổng công ty Đường sắt Việt Nam Hoàng Năng Khang cho biết, đối với tuyến tốc độ thiết kế trên 200km/h, doanh nghiệp trong nước có thể tham gia sâu vào chuỗi giá trị: lắp ráp, sản xuất chi tiết cơ khí, bảo trì, vận hành và hệ thống tín hiệu, điện, AFC. Đây là cơ hội để tăng tỷ lệ nội địa hóa, giảm chi phí và nâng cao năng lực công nghiệp hỗ trợ.
PGS. TS Nguyễn Chỉ Sáng – Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Cơ khí Việt Nam – nhấn mạnh, cần xây dựng lộ trình phát triển công nghiệp đường sắt quốc gia, xác định các sản phẩm, dịch vụ cần nội địa hóa theo từng giai đoạn và đưa vào điều kiện thầu. Nhà nước nên giao một số doanh nghiệp chủ chốt thực hiện chế tạo các hạng mục quan trọng trong ít nhất ba dự án đầu tiên, bảo đảm chuyển giao công nghệ và năng lực sản xuất nội địa.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cũng khẳng định, phát triển công nghiệp hỗ trợ cần chính sách đủ mạnh: ưu đãi thuế, đất đai, tín dụng, chuyển giao công nghệ, R&D, đào tạo nhân lực chất lượng cao và phát triển khu công nghiệp công nghệ cao. Những cơ chế này sẽ giúp doanh nghiệp Việt nâng cao năng lực, tham gia dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam và các dự án trọng điểm khác.
Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh: “Chúng ta quyết tâm làm chủ công nghệ, sản xuất toa xe, đầu máy và phát triển hệ sinh thái công nghiệp đường sắt. Đây là cơ hội để đất nước vươn lên, phát triển bền vững và tăng sức cạnh tranh quốc tế.”
Với quy mô thị trường hàng tỷ USD và lộ trình phát triển rõ ràng, dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam chính là “đòn bẩy” để ngành cơ khí chế tạo và công nghiệp hỗ trợ Việt Nam tăng tốc, nâng cao năng lực sản xuất, làm chủ công nghệ, đồng thời đóng góp trực tiếp vào tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Lê Hiền