Khủng hoảng ngân hàng toàn cầu: Liệu Việt Nam có bị nguy hiểm?
Liệu Việt Nam có phải chứng kiến một vụ sụp đổ ngân hàng tương tự như Ngân hàng Silicon Valley vừa qua không?
Trong thời kỳ đại dịch, các ngân hàng thương mại ở những nền kinh tế phát triển như Mỹ và EU phải vật lộn để tìm kiếm các công ty sẵn sàng tiếp nhận tiền đầu tư của họ. Ngay cả mức lãi suất thấp lịch sử cũng không thể thuyết phục doanh nghiệp rót tiền vào các dự án hoặc công nghệ mới.
Dẫu khó khăn do COVID-19, ngân hàng cũng không thể chỉ giữ tiền gửi trong kho mà phải đầu tư để tạo lợi nhuận. Do đó, nhiều ngân hàng, đặc biệt là ở Mỹ, đã quyết định mua trái phiếu chính phủ để tạo ra ít nhất một khoản lợi nhuận dù nhỏ với rủi ro thấp. Chiến lược này cũng dễ hiểu vì đây có lẽ là giải pháp thay thế đơn giản và thận trọng nhất khi đối mặt với tình trạng không mặn mà với nguồn vốn từ các công ty.
Tình hình chuyển hướng ngay khi các đợt phong tỏa kết thúc. Lạm phát bắt đầu tăng nhanh đột ngột do lượng tiền khổng lồ các ngân hàng trung ương bơm vào nền kinh tế, cùng với việc giá năng lượng tăng do cuộc chiến Nga-Ukraine vẫn đang diễn ra. Mỹ ghi nhận tỉ lệ lạm phát 9,1% vào tháng 6/2022 – mức cao nhất trong 40 năm. Khu vực đồng tiền chung châu Âu đạt mốc 10% vào tháng 9/2022, tỉ lệ cao nhất từng được ghi nhận.
Trong cuộc chạy đua kiềm chế lạm phát, các ngân hàng trung ương đã tăng lãi suất với tốc độ kỷ lục. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã nâng lãi suất từ 0,25% lên 5% như hiện tại trong vòng chưa đầy một năm. Ngân hàng Trung ương châu Âu tăng lãi suất từ 0% lên 3,5% trong vòng chưa đầy bảy tháng. Điều này thể hiện tốc độ tăng lãi suất nhanh nhất trong lịch sử của cả hai tổ chức trên.
Dẫu đây là động thái hợp lý để ngăn chặn lạm phát gia tăng, nhưng lại gây ra những thiệt hại không mong muốn khác. Ví dụ, khi trái phiếu được phát hành với lãi suất 2% mỗi năm, nó được định giá bằng 100% giá trị thị trường. Một trái phiếu giống hệt được phát hành sau đó sẽ mang lại cho trái chủ lãi suất 4%, khiến cho trái phiếu đầu tiên kém hấp dẫn hơn nhiều. Trong trường hợp kể trên, trái chủ đầu tiên sẽ phải chấp nhận giảm giá nếu muốn bán trái phiếu cũ vì cơ hội đầu tư tốt hơn đã hiển hiện.
Mức tăng 1%, tùy thuộc vào loại trái phiếu, có thể dễ dàng khiến trái phiếu cũ giảm 8% giá trị. Một số ngân hàng thương mại đã dự trữ trái phiếu Chính phủ Mỹ, loại trái phiếu có rất ít rủi ro miễn là họ giữ cho đến khi hết hạn, và được hoàn lại toàn bộ vốn đầu tư cộng với tiền lãi. Tuy nhiên, nếu người gửi đến đòi tiền, như đã xảy ra với Ngân hàng Silicon Valley vào tháng 3 vừa qua, ngân hàng sẽ buộc phải bán đổ bán tháo một số tài sản để có được thanh khoản nhanh chóng.
Điều này dẫn đến sự sụp đổ của Ngân hàng Silicon Valley, khiến Ngân hàng First Republic lung lay và ngành ngân hàng toàn cầu rúng động, tác động đến châu Âu với Credit Suisse và Ngân hàng Deutsche bị ảnh hưởng nặng nề. Tuy nhiên, hầu hết các ngân hàng thương mại đã vượt qua cuộc khủng hoảng gần đây mà không bị tổn hại. Tình hình này, với Việt Nam, chỉ là tin tức ở nơi nào đó xa xôi và ảnh hưởng rất ít đến hoạt động kinh doanh thường nhật. Nhưng liệu các ngân hàng thương mại Việt Nam có đang gặp rủi ro và có khả năng sụp đổ như những gì vừa diễn ra với Ngân hàng Silicon Valley không?
Hiện có một vài yếu tố có lợi cho hệ thống ngân hàng Việt Nam. Thứ nhất, các ngân hàng thương mại Việt Nam nắm giữ ít trái phiếu Chính phủ hơn nhiều so với các ngân hàng Mỹ. Bên cạnh đó, Việt Nam đã vượt qua đại dịch nhờ một cộng đồng doanh nghiệp khá lành mạnh vẫn vay vốn ngân hàng cho các dự án kinh doanh của họ, ngay cả trong những thời điểm khó khăn nhất.
Thêm vào đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) không tăng lãi suất nhanh và mạnh như các nước phương Tây, thậm chí còn giảm 0,5% sau một cuộc họp giữa tháng 3 và thậm chí giảm tiếp vào cuối tháng 3 vừa qua. Trên thực tế, NHNN vẫn còn dư địa để giảm lãi suất nhiều hơn, do tỉ lệ lạm phát ở Việt Nam không tăng nhanh như các nước khác. Vì vậy, ngay cả nếu các ngân hàng thương mại Việt Nam nắm giữ trái phiếu, họ sẽ chịu thiệt hại ít hơn rất nhiều. Ngoài ra, trong khi trái phiếu Chính phủ Mỹ có thể có thời gian đáo hạn lên đến ba mươi năm thì trái phiếu Chính phủ Việt Nam thường đáo hạn chỉ sau ba đến năm năm.
Trong quá khứ, các cuộc khủng hoảng ngân hàng, bao gồm cả cuộc khủng hoảng lớn vào năm 2012, đã khiến NHNN thắt chặt các quy định giúp ngành này ổn định hơn. Ngoài ra, một số bên cho vay hiện đã tuân thủ theo các quy định ngân hàng chuẩn mực quốc tế như Basel 3. Cuối cùng, NHNN đã nhiều lần thể hiện rằng sẽ can thiệp và đưa ra giải pháp lập lại trật tự với bất kỳ ngân hàng thương mại nào có dấu hiệu gặp nguy hiểm.
Tuy nhiên, trong khi các ngân hàng thương mại Việt Nam có thể không gặp rủi ro, lĩnh vực bất động sản lại đang bị rung chuyển do lãi suất tăng khiến tình hình trở nên căng thẳng. Hơn nữa, lĩnh vực tài chính Việt Nam thường là ngắn hạn. Hầu hết các công ty chỉ có thể đầu tư thông qua tín dụng ngắn hạn. Khi các khoản này đáo hạn, họ cần tái cấp vốn với lãi suất cao hơn bình thường, gây áp lực lên cơ cấu chi phí của họ. Tín dụng dài hạn sẽ giúp củng cố sức mạnh tài chính cho các tập đoàn, và hơn thế nữa, còn cho toàn bộ nền kinh tế.
Một áp lực khác là nợ khó đòi. Để ứng phó với đại dịch, NHNN cho phép các ngân hàng thương mại bớt khắt khe hơn với nợ xấu. Điều này cho phép các ngân hàng thương mại không phải xóa nợ đối với các doanh nghiệp bị ảnh hưởng tiêu cực bởi đại dịch. Trong khi một số doanh nghiệp đã phục hồi, nhiều ngân hàng vẫn còn khoản nợ xấu đáng kể. Tỉ lệ nợ có rủi ro cao, có thể phải chuyển thành nợ xấu, hiện ở mức 7,42%.
Nhìn chung, dẫu ngành ngân hàng tại Việt Nam hiện không có nguy cơ phải đóng cửa bất kỳ ngân hàng nào, áp lực hiện tại có thể là một cơ hội tốt để củng cố lĩnh vực tài chính hơn nữa. Cho phép các công ty bắt tay vào các dự án dài hạn và không phải bận tâm về việc tái cấp vốn nợ trong thời gian ngắn sẽ là một bước đi đúng hướng. Ngoài ra, giải phóng dòng vốn sẽ giúp thị trường vốn Việt Nam hấp dẫn hơn đối với vốn nước ngoài.
Dù điều này có vẻ đi ngược lại quan niệm thông thường, nhưng cho phép tiền chảy ra khỏi đất nước sẽ dẫn đến dòng vốn rót vào cao hơn vì các nhà đầu tư quốc tế được đảm bảo rằng họ có thể thu hồi vốn nếu cần.