Khu công nghệ số tập trung – Hạ tầng công nghiệp công nghệ số cho doanh nghiệp số Việt Nam
Luật Công nghiệp công nghệ số, có hiệu lực từ ngày 01/01/2026, dành một chương quan trọng quy định về khu công nghệ số tập trung – không gian tập trung cho nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh sản phẩm, dịch vụ công nghệ số. Đây được xem là bước kế thừa và nâng cấp mô hình khu công nghệ thông tin (CNTT) tập trung đã hình thành hơn 20 năm qua, đồng thời mở đường cho việc hình thành các “khu công nghệ số tập trung” thế hệ mới.

Khu CNTT tập trung Đà Nẵng – mô hình hạ tầng tiên phong đang được mở rộng theo định hướng khu công nghệ số tập trung.
Trong Quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền thông thời kỳ 2021–2030, Chính phủ đặt mục tiêu đến năm 2030 hình thành khoảng 16–20 khu CNTT tập trung và các thành viên chuỗi công viên phần mềm, tập trung tại TP.Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ và một số vùng có lợi thế về công nghiệp CNTT.
Tính đến tháng 5/2025, trên cả nước đã có 8 khu CNTT tập trung được thành lập, mở rộng và công nhận theo quy định hiện hành, gồm: Công viên phần mềm Quang Trung, Khu CNTT tập trung Cầu Giấy (Hà Nội), Công viên phần mềm Đà Nẵng, Công viên công nghệ phần mềm Hà Nội, Khu CNTT tập trung Đà Nẵng (Danang IT Park), Khu CNTT tập trung Cần Thơ, Khu phức hợp văn phòng FPT Đà Nẵng và Khu CNTT tập trung Bình Dương. Trong số này, Công viên phần mềm Quang Trung (TP.HCM) và Cụm CNTT Cầu Giấy (Hà Nội) là những mô hình đầu tiên, đã thu hút hàng trăm doanh nghiệp phần mềm, dịch vụ CNTT, đóng góp đáng kể vào doanh thu và việc làm trong ngành. Khu CNTT tập trung Đà Nẵng (Danang IT Park) có quy mô khoảng 341 ha, đang được xây dựng theo định hướng trở thành “thung lũng silicon” của khu vực miền Trung.
Khu CNTT tập trung Bình Dương – được thành lập tháng 5/2025 với diện tích 15,47 ha – là ví dụ mới cho xu hướng các địa phương chủ động phát triển hạ tầng chuyên biệt cho công nghệ số.
Việc xây dựng khung pháp lý mới cho khu công nghệ số tập trung trong Luật Công nghiệp công nghệ số được kỳ vọng sẽ khắc phục một số bất cập về quy hoạch, tiêu chí, ưu đãi và mô hình quản lý, đồng thời gắn chặt hơn với mục tiêu phát triển công nghiệp công nghệ số, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo.
Từ thực tiễn đó, Luật Công nghiệp công nghệ số đã thiết kế toàn diện các quy định về khu công nghệ số tập trung. Về điều kiện thành lập, mở rộng, khu phải phù hợp với chính sách phát triển công nghệ số, công nghiệp công nghệ số của Nhà nước; nằm trong định hướng, mục tiêu của quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh và quy hoạch sử dụng đất của địa phương. Quy mô diện tích và phân khu chức năng phải bảo đảm điều kiện thuận lợi để bố trí doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu, dịch vụ hỗ trợ. Phương án thành lập, mở rộng phải phù hợp với chức năng khu, đồng thời đáp ứng yêu cầu về quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, di tích lịch sử, văn hóa, di sản thiên nhiên và các điều kiện quản lý khác do Chính phủ quy định chi tiết.
Về phương thức đầu tư, việc thành lập, mở rộng khu công nghệ số tập trung được thực hiện thông qua dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng, với ba phương thức: sử dụng ngân sách nhà nước theo pháp luật về đầu tư công; đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP); hoặc sử dụng vốn doanh nghiệp. Tương ứng với từng phương thức, trình tự, thủ tục lập và phê duyệt dự án được dẫn chiếu tới pháp luật về đầu tư, đầu tư công, ngân sách nhà nước, quản lý tài sản công và các quy định có liên quan. Trường hợp nhà đầu tư triển khai dự án trong khu công nghệ số tập trung, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư mà không phải tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư, miễn là tuân thủ pháp luật về đầu tư.
Luật cũng làm rõ thời điểm khu công nghệ số tập trung được coi là chính thức thành lập hoặc mở rộng: đó là khi cấp có thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư dự án hạ tầng khu (với dự án vốn đầu tư công hoặc PPP), hoặc chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư (với dự án sử dụng vốn doanh nghiệp). Cách xác định này gắn việc “ra đời” của khu với dự án đầu tư cụ thể, tránh tình trạng khu chỉ tồn tại trên giấy.
Bên cạnh mô hình thành lập mới, Luật mở khả năng công nhận các khu chức năng hiện hữu trở thành khu công nghệ số tập trung nếu đáp ứng tiêu chí. Các khu đang có hoạt động công nghiệp công nghệ số có thể được xem xét công nhận khi phù hợp với định hướng, mục tiêu của quy hoạch ngành quốc gia liên quan và quy hoạch tỉnh, đồng thời đáp ứng tiêu chí về chức năng, quy mô diện tích, quy hoạch xây dựng, nhân lực. Thẩm quyền công nhận thuộc UBND cấp tỉnh; Chính phủ sẽ quy định chi tiết tiêu chí và trình tự, thủ tục. Cơ chế này giúp tận dụng hạ tầng sẵn có (như các khu CNTT tập trung hiện nay), đồng thời chuẩn hóa theo khuôn khổ mới về công nghệ số.
Về chính sách ưu đãi, khu công nghệ số tập trung được áp dụng mức ưu đãi đầu tư tương đương địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn theo pháp luật về đầu tư và pháp luật khác. Các dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu, cũng như các dự án công nghiệp công nghệ số trong khu, được hưởng ưu đãi dành cho ngành, nghề đặc biệt ưu đãi đầu tư. Đối với đất đai, các dự án xây dựng hạ tầng khu và dự án công nghiệp công nghệ số có sử dụng đất trong khu được miễn, giảm tiền thuê đất theo pháp luật đất đai. Nhà đầu tư hạ tầng khu còn có thể được Nhà nước hỗ trợ đầu tư hệ thống hạ tầng kỹ thuật bên trong và hạ tầng kết nối đến khu, cùng với hỗ trợ tổ chức hệ thống giao thông công cộng phục vụ người lao động.
Luật cũng chú trọng hạ tầng xã hội và dịch vụ đi kèm. Các dự án xây dựng nhà ở, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động trong khu công nghệ số tập trung được hưởng ưu đãi theo pháp luật về nhà ở, kinh doanh bất động sản và các quy định liên quan. Điều này nhằm bảo đảm khu công nghệ số tập trung không chỉ là nơi đặt nhà xưởng, trung tâm dữ liệu hay văn phòng, mà còn là môi trường sống và làm việc tương đối hoàn chỉnh cho đội ngũ nhân lực công nghệ số.
Cuối cùng, về mô hình quản lý – vận hành, Luật quy định phải có đơn vị quản lý, vận hành và khai thác khu công nghệ số tập trung – là tổ chức được thành lập hoặc được giao nhiệm vụ – chịu trách nhiệm quản lý, vận hành, khai thác khu; cung cấp các dịch vụ phục vụ hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh sản phẩm công nghệ số và các hoạt động liên quan của doanh nghiệp trong khu. Chính phủ sẽ quy định chi tiết để bảo đảm các khu vận hành ổn định, minh bạch, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp.
Trong bối cảnh cả nước đã có 8 khu CNTT tập trung hoạt động và đang hướng tới mục tiêu 16–20 khu vào năm 2030, việc Luật Công nghiệp công nghệ số bổ sung khung pháp lý cho khu công nghệ số tập trung cho thấy định hướng chuyển từ mô hình “khu CNTT” thuần túy sang các khu công nghệ số tập trung gắn với sản phẩm, dịch vụ công nghệ số trọng điểm, AI, bán dẫn…. Với các hướng dẫn chi tiết và triển khai đồng bộ, các quy định này sẽ giúp các địa phương có công cụ rõ ràng để quy hoạch, xây dựng, công nhận và vận hành khu công nghệ số tập trung, tạo không gian mới cho doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam phát triển.
Giang Tú



