Doanh nghiệp Việt cần liên kết để tham gia chuỗi cung ứng công nghiệp hàng không
Tại Hội nghị bàn tròn “Từ khát vọng đến cơ hội phát triển công nghiệp hàng không” chiều 5/9 tại Trung tâm Hội chợ Triển lãm Quốc gia, các chuyên gia nhấn mạnh doanh nghiệp Việt Nam muốn tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu cần thay đổi tư duy và có chiến lược hợp tác cụ thể.
Ông Trần Hải Đăng, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Dịch vụ kỹ thuật hàng không (AESC), dẫn số liệu nghiên cứu quốc tế cho thấy năm 2025, thị trường công nghiệp hàng không toàn cầu đạt khoảng 1.000 tỷ USD, trong đó một nửa thị phần ở châu Mỹ, tiếp đến là châu Âu, còn châu Á – Thái Bình Dương đang tăng trưởng nhanh qua từng năm. Tuy nhiên, ông cho biết, chưa có doanh nghiệp Việt nào sản xuất linh kiện điện tử, phụ kiện, vật liệu như nhôm, nhựa, cao su hay sơn máy bay.
Theo ông Đăng, doanh nghiệp trong nước cần nhìn thẳng vào thực tế: nếu không liên kết và có định hướng chung, rất khó để bước vào chuỗi phát triển công nghiệp hàng không. Ông lưu ý, các công ty nên đầu tư có trọng tâm, tránh dàn trải hoặc cạnh tranh bằng giá. Bởi lẽ, ưu đãi đất đai, nhà xưởng hay thuế chỉ là giải pháp tạm thời, không thể giải quyết gốc rễ vấn đề. Giải pháp hiệu quả là chia sẻ nguồn lực về thí nghiệm, cơ sở thử nghiệm, kinh nghiệm, thông tin dự án, đồng thời Nhà nước cần ban hành các chương trình phát triển máy bay cụ thể để doanh nghiệp vệ tinh có thể tham gia theo từng dự án.
Ông Trần Hải Đăng, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Dịch vụ kỹ thuật hàng không (AESC) phát biểu tại Hội nghị
Ông Uông Việt Dũng, Cục trưởng Cục Hàng không Việt Nam, nhấn mạnh sự phát triển của ngành hàng không cần có sự tham gia song song của Nhà nước và tư nhân. Hiện Việt Nam có 14 hãng bay thương mại và chuyên dụng, với 254 tàu bay khai thác trong năm 2025, dự kiến đạt 400 tàu bay hiện đại vào năm 2030. Mạng đường bay mở rộng với 52 tuyến nội địa và 211 tuyến quốc tế. Ông cho rằng để thúc đẩy thị trường, Việt Nam cần hình thành và phát triển ngành công nghiệp cung ứng, sản xuất, chế tạo hàng không.
Cũng theo ông Dũng, công nghiệp hàng không không chỉ bao gồm sản xuất và nghiên cứu thiết bị, mà còn cả quản lý phương tiện, hạ tầng khai thác, logistics và dịch vụ kỹ thuật liên quan. Điểm yếu hiện nay là thiếu liên kết, thiếu định hướng thị trường, cùng hạn chế về nhân lực kỹ thuật cao để nghiên cứu, xây dựng và phê duyệt tiêu chuẩn kỹ thuật.
Cục trưởng Cục Hàng không cho biết Việt Nam đã có quy hoạch mạng hàng không quốc gia và đang thúc đẩy đầu tư nhằm xác định dư địa phát triển công nghiệp hàng không. Trong bối cảnh chuỗi cung ứng linh kiện toàn cầu đang dịch chuyển, cùng với sự xuất hiện của công nghệ mới, nhiên liệu bền vững và nhu cầu đào tạo nhân lực, Việt Nam có thể trở thành trung tâm đào tạo lớn trong khu vực. Ông Dũng nhấn mạnh: “Chúng ta có ước mơ và khát vọng, quyết tâm đi cùng nhau để xác định chiến lược và lộ trình từng giai đoạn, từng bước hiện thực hóa mục tiêu gia nhập chuỗi cung ứng công nghiệp hàng không. Cục Hàng không sẽ đóng vai trò cầu nối giữa các tổ chức, nhà sản xuất trong và ngoài nước nhằm hỗ trợ chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực, tạo hệ sinh thái cộng đồng cho ngành phát triển.”
Cục trưởng Cục HKVN Uông Việt Dũng phát biểu tại Hội nghị
Hiện nay, ngành công nghiệp hỗ trợ hàng không của Việt Nam mới ở giai đoạn đầu, quy mô nhỏ và chủ yếu phục vụ bảo dưỡng, sửa chữa thiết bị, linh kiện. Các doanh nghiệp trong nước mới dừng ở vai trò cung ứng sản phẩm phụ trợ cơ bản như cơ khí chính xác, vật liệu, phụ tùng mà chưa tham gia sâu vào sản xuất cấu kiện và thiết bị hàng không phức tạp.
Nguyên nhân chủ yếu là thiếu nền tảng công nghệ cao, hạn chế trong tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, cũng như vốn đầu tư lớn mà doanh nghiệp khó tự đáp ứng. Tuy nhiên, đây lại là lĩnh vực có tiềm năng phát triển mạnh nếu có chính sách hỗ trợ đúng hướng.
Để tạo bước đột phá, cần hình thành chuỗi cung ứng trong nước gắn với các tập đoàn sản xuất quốc tế, đồng thời đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, phát triển doanh nghiệp vệ tinh. Việc xây dựng các trung tâm thử nghiệm, chứng nhận chất lượng đạt chuẩn quốc tế là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp Việt có thể trở thành nhà cung ứng cấp 2 hoặc cấp 3 trong mạng lưới toàn cầu.
Bên cạnh đó, đào tạo nhân lực kỹ thuật cao về vật liệu hàng không, thiết kế, chế tạo và kiểm định cần được ưu tiên. Các viện nghiên cứu, trường đại học kỹ thuật cần liên kết với doanh nghiệp và cơ quan quản lý để phát triển đội ngũ chuyên gia trong nước, giảm phụ thuộc vào nguồn nhân lực nước ngoài.
Với xu hướng xanh hóa, số hóa và tự động hóa, ngành công nghiệp hỗ trợ hàng không Việt Nam nếu được định hướng tốt có thể trở thành nền tảng cho phát triển công nghiệp công nghệ cao, đóng góp vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu và thúc đẩy tăng trưởng bền vững cho ngành hàng không quốc gia.
Đỗ Ngọc



