Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam sẵn sàng “vượt sóng”
Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc–Nam và Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng đang mở ra cơ hội vàng cho ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) Việt Nam. Với vai trò cung cấp linh kiện, vật liệu và thiết bị cơ khí, các doanh nghiệp CNHT trong nước có cơ hội nâng cao năng lực, tiếp nhận công nghệ quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Phóng viên đã trao đổi với ông Nguyễn Hoàng, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp hỗ trợ công nghiệp Hà Nội (HANSIBA).
Ông Nguyễn Hoàng, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp hỗ trợ công nghiệp Hà Nội (HANSIBA)
Thưa ông, ngành CNHT Việt Nam đã có bước chuyển mình ra sao trong những năm gần đây và hiện trạng năng lực của doanh nghiệp CNHT như thế nào so với yêu cầu chuỗi giá trị toàn cầu?
Ngành CNHT Việt Nam đã thay đổi tích cực, hiện có hơn 5.000 doanh nghiệp áp dụng các tiêu chuẩn quản lý hiện đại. Một số tập đoàn lớn như Viettel, Vingroup, Thành Công, Hòa Phát tạo nền tảng giúp doanh nghiệp tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu. Nhiều sản phẩm như dây cáp điện, hộp số, linh kiện nhựa đã xuất khẩu sang Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, số doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu cao còn hạn chế. Ngành chủ yếu giá trị thấp, tập trung dệt may, da giày, chế biến gỗ, cơ khí. Sản phẩm công nghệ cao vẫn do doanh nghiệp FDI nắm giữ. Khoảng 100 doanh nghiệp làm nhà cung ứng cấp một cho tập đoàn đa quốc gia, cấp hai và ba khoảng 700 doanh nghiệp. R&D đã được quan tâm nhưng chưa đúng mức, nguồn nhân lực còn thiếu.
Hai dự án đường sắt sắp triển khai có ý nghĩa như thế nào và cơ hội cụ thể cho doanh nghiệp Việt Nam ra sao?
Dự án Bắc–Nam và Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng tổng mức đầu tư 67,34 tỷ USD và 8,37 tỷ USD sẽ hiện đại hóa hạ tầng và tạo thị trường hàng chục tỷ USD cho CNHT, đặc biệt cơ khí, chế tạo, tự động hóa, sản xuất thép, vật liệu xây dựng và linh, phụ kiện. Ngành thép và cơ khí Việt Nam hoàn toàn có thể sản xuất nhiều thiết bị quan trọng; ví dụ, Hòa Phát có thể sản xuất hàng trăm ngàn ray thép mỗi năm.
Các doanh nghiệp còn cơ hội tiếp nhận và làm chủ công nghệ từ Nhật Bản, Pháp, Đức, Hàn Quốc, Trung Quốc, nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng. Ngoài sản xuất linh kiện và phụ tùng, doanh nghiệp sẽ nắm vững vận hành, bảo trì, mở rộng năng lực cho các dự án đường sắt đô thị. Đây là cơ hội để ngành cơ khí Việt Nam phát triển mạnh mẽ.
Liệu các doanh nghiệp CNHT trong nước có đủ năng lực đáp ứng yêu cầu kỹ thuật khắt khe của dự án không?
Thách thức lớn là đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế, đòi hỏi đầu tư mạnh vào công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và đào tạo nhân lực. Hợp tác quốc tế cần chú trọng bảo vệ sở hữu trí tuệ và quản lý chuỗi cung ứng.
Chính phủ và Bộ Xây dựng nhấn mạnh huy động nguồn lực trong nước. Các chương trình làm việc trực tiếp với hiệp hội, tổ chức doanh nghiệp sẽ giúp đánh giá năng lực sản xuất, khả năng cung ứng, hợp tác với tổng thầu trong nước và quốc tế trước khởi công năm 2027. Cơ chế đặc thù về tài chính, công nghệ và “bộ tiêu chí” cần được thiết lập để doanh nghiệp trong nước tham gia đầu tư, cung ứng sản phẩm.
Doanh nghiệp cần bám sát thông tin dự án, cải tiến năng lực sản xuất, hợp tác với đối tác quốc tế để nâng cao công nghệ và chất lượng sản phẩm.
Với vai trò là ngành xương sống của nền công nghiệp, cần những giải pháp gì để CNHT phát triển và đóng góp cho đất nước?
CNHT quyết định giá thành sản xuất, giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Ngành CNHT nhận được sự quan tâm lớn từ Đảng và Nhà nước nhưng còn khó khăn về cơ chế, thủ tục vay vốn, lãi suất, tín dụng. Nhiều doanh nghiệp CNHT nhỏ, tài chính hạn chế, thiếu tài sản đảm bảo nhưng nhu cầu đầu tư lớn.
Để phát triển CNHT, cần sớm xây dựng Luật CNHT, thành lập Ban chỉ đạo quốc gia liên ngành về công nghiệp với Phó thủ tướng chuyên trách, để giải quyết kịp thời kiến nghị doanh nghiệp. Cần xây dựng kế hoạch, lộ trình phát triển đến năm 2025, tầm nhìn 2030, đạt tỷ trọng 5–10% tổng doanh nghiệp Việt Nam.
Giải pháp trọng tâm: hỗ trợ vốn đặc thù với lãi suất thấp, thời hạn vay dài, hạn mức vay và tài sản thế chấp phù hợp; quy hoạch các khu CNHT gắn với chuỗi cung ứng quốc tế và trong nước; tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tốt, vì nhiều DN CNHT đầu tư dài hạn 2–5 năm, thậm chí 5–10 năm mới có lãi.
Trân trọng cảm ơn ông!
Lan Anh