Nhà thơ Nguyễn Văn Á: Dùng văn chương để tri ân người có công với nước là đạo lý uống nước nhớ nguồn
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2025), Thượng tá, nhà thơ Nguyễn Văn Á đã cho ra mắt tập thơ “Giọt sương bên cửa sổ” và truyện ký “Phía Nam sông Bến Hải”.
Thượng tá, nhà thơ Nguyễn Văn Á sinh năm 1952, quê tại Văn Giang (Sơn Thịnh, Hương Sơn, Hà Tĩnh), bút danh là Khánh Văn. Ông tham gia quân đội, hàng chục năm lăn lộn trên khắp nẻo chiến trường khốc liệt.
Ông đã được tặng 4 Huân chương Chiến công hạng Nhất, hạng Nhì, hạng Ba; 1 Huy chương Tuổi trẻ Anh hùng bảo vệ Tổ quốc; 2 bằng “Dũng sĩ diệt máy bay”… trong các cuộc kháng chiến.
Ông là hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, từng được nhận nhiều giải thưởng tại các cuộc thi viết về đề tài chiến tranh, cách mạng.
Là người lính trưởng thành từ chiến trường khốc liệt, ông mang đậm phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ – điềm đạm, chân thành, giàu nghĩa tình đồng chí, đồng đội. Các tác phẩm của ông là kết tinh từ trải nghiệm, tâm hồn sâu sắc và lý tưởng phụng sự Tổ quốc không chỉ bằng súng mà còn bằng ngòi bút.
Thượng tá, Nhà thơ Nguyễn Văn Á bày tỏ: “Những gì tôi viết ra trong tập thơ “Giọt sương bên cửa sổ” chính là tiếng tơ lòng và truyện ký “Phía Nam sông Bến Hải” là sự khởi đầu của nghiệp văn chương sau 55 năm cầm súng và cầm bút. Dùng văn chương để tri ân cuộc đời, tri ân người có công với nước là nghĩa cử cao đẹp, là đạo lý uống nước nhớ nguồn. Đó là thông điệp tôi muốn gửi đến bạn đọc”.
“Giọt sương bên cửa sổ” là tập thơ được tác giả viết từ năm 1971 đến 2024, gồm 3 phần. Phần một “Giọt sương bên cửa sổ” là những bài thơ nói về tình yêu đôi lứa, tình yêu của người lính đối với quê hương và đất nước, nguyện chiến đấu, hy sinh vì Tổ quốc.
Phần hai “Khúc giao mùa” là những bài thơ viết về tình yêu và thế sự. Dù là tâm sự riêng nhưng cũng phản ánh được phần nào thời cuộc. Phần 3 “Hoài niệm” là những bài thơ đầy nhớ thương của tác giả với quê hương, chiến trường, đồng đội, người thân, bè bạn…
Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, nhà phê bình Văn học Nguyễn Thanh Tú chia sẻ: Đọc “Giọt sương bên cửa sổ” của tác giả Nguyễn Văn Á, có cảm giác như đọc lại phần đời mình trong suy nghĩ của thế hệ đi trước. Phải chăng người ta vẫn nói thơ là tiếng nói tri âm, đồng điệu, là như thế chăng. Chỉ biết, tập thơ nói thật những nghĩ suy người lính trong lúc cầm súng và lúc buông súng – thời hòa bình”.
“Qua thơ, còn hiện cả một thời đại, một không gian văn hóa. Với riêng tôi, “Giọt sương bên cửa sổ” nói lên nhân cách đáng kính trọng của người lính, nói lên một thời đại văn hóa tất cả vì Tổ quốc quyết sinh. Đây là tiếng thơ đáng quý, đáng được sẻ chia, tôn vinh”, ông Nguyễn Thanh Tú bày tỏ.
Truyện ký “Phía Nam sông Bến Hải” gồm 2 phần. Trong đó, phần 1 “Khi miền Nam vẫy gọi” gồm 19 bài viết về những trận đánh tác giả cùng đồng đội đã kinh qua, những kỷ niệm cùng đồng đội và ký ức về những người anh hùng thầm lặng chưa được vinh danh.
Phần 2 “Trầm tích” gồm 10 bài viết về hành trình hậu chiến của ông để tri ân đồng đội, trả lại tên cho liệt sĩ cùng sự quyết tâm để huy động mọi nguồn lực xây dựng nên những công trình tưởng niệm nằm bên sông Bến Hải.
Nhà thơ, nhà báo Nguyễn Sĩ Đại ôn lại kỷ niệm không thể nào quên: “Tôi gặp Nguyễn Văn Á khoảng đầu những năm 1980. Anh ào về Hà Nội như một cơn gió rừng Vị Xuyên, quân phục còn khét mùi bom đạn. Ngày ấy, tôi cũng vừa từ mặt trận Lạng Sơn – Cao Bằng về, làm biên tập viên văn nghệ của Báo Nhân Dân. Chuyện giữ chốt, chuyện đồng hương, chuyện thơ xoắn xuýt… Rồi năm 1988, anh lại đến 71 Hàng Trống (Hà Nội) với một tập giấy đủ kiểu, đó là bản thảo thơ chép tay, chữ to như “gà mái mạ”. Nhìn vẻ ngoài, Á “quê một cục”, lính thứ thiệt mà thơ thi quá dịu dàng”.
Trong mắt nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại, Nguyễn Văn Á là người chân thực, giản dị và rất quyết tâm. Gia đình ông cũng đã có nhiều đóng góp với cách mạng, trong đó hai anh trai của Nguyễn Văn Á, một người là thương binh, một người là liệt sĩ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Ngoài sự lôi cuốn trong tác phẩm, câu chuyện cuộc đời của tác giả Nguyễn Văn Á khiến nhiều người không nén nổi xúc động. Suốt hơn 20 năm ông đi tìm hài cốt liệt sĩ của anh trai, càng thấu hiểu nỗi đau và niềm mong mỏi của thân nhân liệt sĩ khi chưa tìm thấy mộ người thân buồn tủi đến thế nào. Ông đã khắc họa hành trình ấy trong nhiều tác phẩm của mình.
Lê Minh