Không nên vội vàng đánh thuế nước giải khát có đường
Chưa có đủ cơ sở khoa học và hiệu quả thực tiễn để đưa nước giải khát có đường vào diện đánh thuế Tiêu thụ đặc biệt, nguy cơ tạo ra những tác động không mong muốn.
Đây là ý kiến của Tiến sĩ Nguyễn Quốc Việt, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Tiến sĩ Nguyễn Quốc Việt, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Thưa ông, Dự thảo bổ sung nước giải khát có đường vào diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt đang được đưa ra lấy ý kiến. Theo ông việc tiêu thụ nước giải khát có đường tại Việt Nam hiện nay như thế nào?
Khảo sát ngẫu nhiên của chúng tôi (Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội) với 1.074 mẫu trong nhóm sinh viên, học sinh, người trẻ tuổi đi làm khu vực miền Bắc (chủ yếu ở Hà Nội) cho thấy, nước giải khát có đường không phải là sản phẩm được sử dụng nhiều nhất. Đáng chú ý, lý do lựa chọn nước giải khát có đường phần lớn đến từ yếu tố tiện dụng và gắn với các hoạt động ngoài trời như thể thao, dã ngoại, du lịch, hay trong dịp lễ Tết, thay vì là thức uống thường xuyên trong khẩu phần hằng ngày. Tỷ lệ sử dụng vào các dịp đặc biệt này chiếm phần lớn, với gần 70% người tham gia khảo sát.
Theo thống kê so sánh dựa trên chỉ số công bố từng loại thực phẩm có đường được bán chính thức, lượng đường và calo từ nước giải khát tại Việt Nam hiện ở mức khá thấp, so với các sản phẩm có đường khác. Do đó, nước giải khát có đường chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng năng lượng nạp vào cơ thể.
Theo đánh giá của ông, Dự thảo đánh thuế nước giải khát có đường có thể thay đổi hành vi tiêu dùng, giúp kiểm soát tình trạng thừa cân béo phì ở Việt Nam hay không?
Dựa trên các kết quả khảo sát trong nhóm nhỏ giới trẻ, chúng tôi cho rằng việc đánh thuế Tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát có đường, khó có thể mang lại hiệu quả rõ ràng trong việc thay đổi hành vi tiêu dùng và hiện chưa có đủ bằng chứng khoa học cho thấy biện pháp này sẽ giúp kiểm soát tình trạng béo phì một cách hiệu quả.
Trước hết, các chuyên gia y tế (kể cả Tổ chức Y tế Thế giới- WHO) đã chỉ rõ nguyên nhân gây ra thừa cân, béo phì, là do sự mất cân bằng năng lượng, nghĩa là lượng calo nạp vào vượt quá lượng calo tiêu hao. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của chúng tôi, nước giải khát có đường lại có mức năng lượng thuộc hàng thấp nhất so với các sản phẩm có đường khác, chỉ khoảng 39 kcal/100g, trong khi sữa chứa tới 92 kcal/100g và thực phẩm dinh dưỡng lên tới 102 kcal/100g. Lượng đường trung bình trong nước giải khát có đường cũng chỉ khoảng 9,63g/100ml, thấp hơn đáng kể so với sữa (16,1g/100ml) hay thực phẩm dinh dưỡng (18,56g/100ml).
Thứ hai, khảo sát của chúng tôi về hành vi tiêu dùng tại khu vực nông thôn và thành thị cho thấy, tỷ lệ tiêu thụ nước giải khát có đường không phản ánh tương quan với tình trạng béo phì của giới trẻ. Cụ thể, tại nông thôn, nơi tỷ lệ béo phì người trẻ tuổi thấp hơn, lại có mức lựa chọn tiêu dùng nước giải khát có đường cao hơn. Ví dụ, sử dụng ở tần suất từ 4–6 sản phẩm/tuần, có 26,45% số người nông thôn tiêu dùng nước giải khát có đường, còn tỷ lệ này ở thành thị là 23,73%. Trong khi đó, người dân thành thị lại lựa chọn nhiều sữa và thực phẩm dinh dưỡng hơn.
Hơn nữa, nếu chỉ đánh thuế nước giải khát có đường mà không mở rộng sang các sản phẩm chứa đường khác, thì không những không đủ sức thay đổi hành vi tiêu dùng, mà còn có thể gây hiểu nhầm rằng nước giải khát có đường là nguyên nhân chính gây béo phì.
Do đó, chúng tôi cho rằng việc đưa nước giải khát có đường vào diện chịu thuế Tiêu thụ đặc biệt là không đầy đủ cả về cơ sở khoa học lẫn hiệu quả thực tiễn. Chính sách nếu không đi kèm một cách tiếp cận toàn diện hơn, sẽ khó đạt được mục tiêu thay đổi hành vi tiêu dùng và kiểm soát béo phì trong cộng đồng.

Tọa đàm “Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt về ngành nước giải khát” được tổ chức bởi Hiệp hội Bia – Rượu – Nước giải khát Việt Nam (VBA) tại Hà Nội ngày 4/4/2025
Khi chưa có đủ cơ sở khoa học và hiệu quả thực tiễn, đề xuất đánh thuế nước giải khát có đường có thể tạo ra những tác động không mong muốn nào, thưa ông?
Một trong những tác động không mong muốn và chưa được đánh giá đầy đủ chính là nguy cơ người tiêu dùng chuyển sang sử dụng các sản phẩm thay thế không nguồn gốc, nhãn mác, thủ công khi nước giải khát có đường bị đánh thuế. Người tiêu dùng có thể chuyển sang các thực phẩm khác chứa nhiều đường và calo hơn như: bánh kẹo, đồ ăn nhanh (bao gồm cả loại chính thức và nguy hại hơn là loại không nguồn gốc, không nhãn mác xuất xứ)… mà không nhận thức rõ rủi ro sức khỏe, làm giảm hiệu quả chính sách.
Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, việc tăng giá nước giải khát có đường thêm 10%, có thể khiến mức tiêu thụ giảm khoảng 20%. Tuy nhiên, điều quan trọng là sự sụt giảm này không đồng nghĩa với việc người tiêu dùng sẽ giảm lượng đường tiêu thụ, mà có thể chỉ đơn thuần là chuyển sang các sản phẩm thay thế rẻ hơn, ít được kiểm soát hơn. Cụ thể, khi áp dụng mức thuế suất 10%, sẽ có hơn 13% người tiêu dùng trong số 20% giảm, sẽ chuyển sang lựa chọn các sản phẩm đồ uống thủ công, chỉ có 3% lựa chọn các đồ uống thay thế chính thống.
Trên góc độ kinh tế, việc áp thuế Tiêu thụ lên nước giải khát có đường vào thời điểm này có thể tạo ra những tác động tiêu cực đến tăng trưởng GDP và thu ngân sách, đặc biệt trong bối cảnh doanh nghiệp và người tiêu dùng vẫn đang gặp nhiều khó khăn sau đại dịch. Thực tế, đề xuất áp thuế nước giải khát có đường đã được đưa ra từ gần 10 năm trước, nhưng đến nay vẫn chưa được thông qua, phần nào cho thấy sự thận trọng là cần thiết.
Ở góc độ chuyên gia về chính sách, ông có kiến nghị gì nhằm đảm bảo chính sách thuế công bằng và hiệu quả?
Chúng tôi đề xuất cân nhắc lại toàn bộ lộ trình tăng thuế cho cả ngành đồ uống, đặc biệt chưa nên đưa nước giải khát có đường vào diện chịu thuế với các lý do phân tích ở trên. Mặt khác, trong bối cảnh nền kinh tế vẫn đang trên đà phục hồi, cộng đồng doanh nghiệp vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn, cần sự hỗ trợ, thì việc áp thuế Tiêu thụ đặc biệt với các kịch bản cao và áp dụng ngay, sẽ tác động mạnh đến ngành đồ uống, cũng như đến toàn bộ nền kinh tế.
Việc tăng thuế đột ngột cao, có thể làm giảm sức mua của người tiêu dùng, gián đoạn hoạt động kinh doanh và ảnh hưởng hoạt động đầu tư. Điều này sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP trên 8% vào năm 2025 và mức tăng trưởng hai con số trong những năm tiếp theo theo Nghị quyết 192/2025/QH15 của Quốc hội.
Theo ông, cần làm gì để có những chính sách hiệu quả kiểm soát thừa cân béo phì tại Việt Nam, tránh được những tác động không mong muốn?
Từ kết quả khảo sát hành vi người tiêu dùng với đồ uống có đường, để tránh những tác động không mong muốn, đầu tiên chúng ta cần xác định chính xác các loại sản phẩm tiêu dùng có hàm lượng đường cao và nguyên nhân gây ra thừa cân, béo phí ở giới trẻ. Từ đó đưa ra các biện pháp can thiệp bằng pháp luật và thiết kế chính sách có tác động đúng đến đối tượng là thực phẩm có đường, đồ uống có hàm lượng đường cao và có tần suất sử dụng cao.
Tiếp đến là thúc đẩy nhà sản xuất cơ cấu lại các nhóm sản phẩm, giảm lượng đường trong đồ uống, công khai thông tin về hàm lượng đường, kết hợp tuyên truyền và giáo dục để người tiêu dùng chủ động thay đổi thói quen.
Để hỗ trợ quá trình này, cần có sự tăng cường phối hợp giữa Nhà nước và doanh nghiệp trong phân loại nhóm thực phẩm theo hàm lượng đường/calo, từ đó nâng cao trách nhiệm của nhà sản xuất đến tiêu dùng.
Tóm lại, chính sách thuế cần được đặt trong bức tranh tổng thể về sức khỏe cộng đồng, kinh tế và công bằng trong thị trường, chứ không nên áp dụng đơn lẻ, vội vàng. Chúng tôi kiến nghị cần thêm thời gian để nghiên cứu kỹ hơn, xây dựng tiêu chí đánh giá rõ ràng, và kết hợp với các biện pháp khác như tuyên truyền, giáo dục dinh dưỡng và vận động thể chất để hướng đến mục tiêu lâu dài, bền vững.
Trân trọng cảm ơn ông!
Minh Khôi thực hiện