Đột phá nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ
Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ có tiềm năng lớn để phát triển kinh tế biên mậu, là vùng giàu tài nguyên, khoáng sản; thuận lợi phát triển nông, lâm nghiệp, thủy sản; hội tụ đầy đủ nhiều tiềm năng du lịch đặc sắc; đặc biệt, đây là vùng đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng. Tuy nhiên, lợi thế của vùng vẫn chưa được khai thác hợp lý và phát huy hiệu quả nên vẫn là “vùng trũng” trong phát triển kinh tế và là “lõi nghèo” của cả nước.
Muốn đi nhanh hãy đi một mình, muốn đi xa hãy đi cùng nhau
Phát biểu tại Diễn đàn Liên kết doanh nghiệp thúc đẩy phát triển bền vững Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ do Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức ngày 27/9, ông Hoàng Quang Phòng – Phó Chủ tịch VCCI cho biết, Bộ Chính trị đã chỉ đạo tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 37 và ban hành Nghị quyết số 11 về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Mục tiêu phát triển vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ trở thành vùng phát triển xanh, bền vững và toàn diện và là hình mẫu phát triển xanh của cả nước.
“Nghị quyết 11 đã đưa ra nhiều điểm mới, có tính đột phá trong phát triển vùng, nhất là về định hướng phát triển, mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể, giải pháp rõ ràng, gắn với một số chủ trương lớn về nghiên cứu xây dựng cơ chế chính sách đặc thù, thí điểm sẽ là cơ sở và là là cơ hội cho vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ phát triển trong giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Để đạt được các mục tiêu đề ra, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 96/NQ-CP ngày 01/8/2022 với 06 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm. Đồng thời đề ra 17 nhiệm vụ cụ thể, 33 dự án liên vùng, kết nối và phân công cho các bộ, ngành triển khai thực hiện với lộ trình thời gian cụ thể. Nghị quyết của Chính phủ đề ra mục tiêu phấn đấu trong giai đoạn 2021 – 2030, tăng trưởng GRDP vùng đạt 8,0-9,0%/năm; đến năm 2030, quy mô kinh tế vùng đạt khoảng 2.100 nghìn tỷ đồng (giá hiện hành); GRDP bình quân đầu người đạt 140 triệu đồng/người/năm (giá hiện hành); tổng thu ngân sách nhà nước đạt khoảng 190.000 tỷ đồng. Là những con số ấn tượng và khả thi có thể đạt được”, ông Hoàng Quang Phòng nhấn mạnh.
Phó chủ tịch VCCI chia sẻ thêm, trong Nghị quyết của Đảng và Nhà nước nói tới rất nhiều điểm “mới”. Với tư duy mới, tầm nhìn mới, lộ trình phát triển mới, vận hội mới… chính là nền tảng quan trọng, giúp “vùng lõi nghèo” miền núi Bắc Bộ phát triển đột phá trong thời gian tới.
Tư duy mới là khi không chỉ Chính phủ, các cơ quan hoạch định chính sách, mà từng địa phương đều hiểu rõ rằng, liên kết là để phát triển và muốn phát triển thì phải liên kết. Và rằng, tư duy liên kết chính là một bộ phận không thể tách rời của tư duy phát triển. “Muốn đi nhanh hãy đi một mình, muốn đi xa hãy đi cùng nhau”. Câu ngạn ngữ ấy, cho đến nay vẫn mang tính thời sự, nhất là khi Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đang bàn cách bắt tay nhau phát triển kinh tế – xã hội.
Ông Hoàng Quang Phòng khẳng định, liên kết chặt chẽ là khi không chỉ chính quyền mà ngay cả doanh nghiệp cùng chung tay xây dựng một quy hoạch chung cho toàn vùng. Liên kết để hình thành và phát triển hệ thống đô thị kết nối nội vùng với các đô thị lớn Vùng Đồng bằng sông Hồng, phát triển các chuỗi liên kết, trung tâm kinh tế đô thị vùng gắn với các đô thị vùng biên giới.
Liên kết để hình thành một số cực tăng trưởng và trung tâm kinh tế của vùng, song hành với phát triển hành lang kinh tế, gắn với không chỉ hệ thống giao thông kết nối, mà còn với tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương trong vùng, tránh cạnh tranh lẫn nhau bằng mọi giá.
Chính sự liên kết toàn diện này sẽ giúp các địa phương trong vùng biến thách thức thành cơ hội, biến thách thức thành cơ hội, biến tiềm năng thành tiềm lực, biến tiềm lực thành nguồn lực, để vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ có thể phát triển đột phá, bắt kịp các vùng kinh tế động lực khác.
Nếu liên kết vùng tại tất cả các vùng được đẩy mạnh, thì tình hình kinh tế – xã hội của từng vùng và của cả nước chắc chắn sẽ có bước đột phá. Quan trọng hơn cả, khi liên kết nội vùng được phát triển, doanh nghiệp sẽ tìm thấy sức hút riêng có của vùng.
Phó chủ tịch VCCI tin tưởng “Diễn đàn Liên kết doanh nghiệp thúc đẩy phát triển bền vững vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ” sẽ có những kiến nghị cụ thể trên cơ sở đánh giá thực tế; những khó khăn vướng mắc; nhận diện cơ hội đầu tư của các doanh nghiệp, nhà đầu tư; lắng nghe ý kiến, kiến nghị, đối thoại từ các nhà quản lý, chuyên gia kinh tế, các địa phương và đặc biệt là từ phía các doanh nghiệp, nhà đầu tư. Qua đó, gợi mở các giải pháp, hướng đi mới thúc đẩy phát triển bền vững vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ như mục tiêu mà Đảng và Chính phủ đã đề ra”.
Nhiều điểm nghẽn cần sớm có quyết sách phù hợp hỗ trợ các địa phương phát triển
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Nguyễn Văn Sơn – Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Tuyên Quang cho biết, trong bối cảnh khó khăn hiện nay, biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng phức tạp, nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng hạn hẹp, chuyển dịch kinh tế theo hướng kinh tế xanh đang là xu hướng của toàn cầu và Việt Nam không nằm ngoài xu thế đó.
Tuyên Quang đã cụ thể hóa bằng các chương trình hành động và NQ cụ thể, phát huy sức mạnh, ưu thế trong phát triển kinh tế rừng. Tuyên Quang hiện có khoảng 448 nghìn hecta đất lâm nghiệp, chiếm 76% đất tự nhiên với độ che phủ rừng đứng thứ 2 cả nước và luôn duy trì trên 65%. Đáng chú ý, rừng cấp chứng chỉ rừng bền vững để phục vụ xuất khẩu gỗ sang các nước phát triển chiếm 48.300 hecta.
Với những lợi thế của tỉnh, Tuyên Quang đã coi phát triển kinh tế rừng bền vững là nhiệm vụ chiến lược trong phát triển kinh tế. Tập trung kiểm soát chặt chẽ với tinh thần rừng đặc dụng phải bảo vệ, đảm bảo giữ vững diện tích rừng đặc dụng nhằm phát huy giá trị cảnh quan rừng đặc dụng làm du lịch.
Nói về phát triển liên kết vùng, Ông Sơn cho biết, tỉnh Tuyên Quang nói riêng và các tỉnh thuộc vùng Bắc Bộ vẫn còn tồn tại 3 điểm nghẽn lớn đang cần tập trung cao độ là Quy hoạch, Hạ tầng và Nâng cao năng lực cạnh tranh.
Hiện nay, Tuyên Quang còn nhiều khó khăn. Nỗ lực trong 2 năm gần đây làm đường cao tốc kết nối Nội Bài – Lào Cai với Tuyên Quang và dự kiến trong năm nay sẽ được khánh thành, và dự kiến năm 2025 có tuyến đường xuyên qua tỉnh Tuyên Quang, đồng thời triển khai những tuyến đường kết nối ngang để kết nối với các địa phương khác như Yên Bái, Phú Thọ, Hà Giang để giải quyết vấn đề hạ tầng liên kết vùng, mang lại cơ hội phát triển cho các tỉnh vùng núi Bắc Bộ
Mặt khác, ông Sơn cũng đề nghị, các Bộ, ban ngành cần chú ý đến 2 nút thắt của địa phương là bảo vệ rừng đặc hộ và rừng đặc dụng. Hiện nay theo chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững và chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số đang khoán cho người dân bảo vệ khoảng 300-400 nghìn/hecta 1 năm. Tuy nhiên điều này sẽ không đảm bảo sinh kế cho người dân, khó giữ được rừng. Do đó, ông Sơn kiến nghị có thể nâng mức khoán cho người dân lên 800-1 triệu/ hecta rừng 1 năm để đảm bảo sinh kế cho người dân.
Hiện nay, tiềm năng thương mại về hấp thụ và lưu giữ các bon của rừng là rất lớn. Nhiều doanh nghiệp và tổ chức đã đề nghị bán chứng chỉ các bon. Nhưng hiện chưa có hành lang pháp lý cho việc phát hành chứng chỉ các bon và tham gia thị trường các bon để giảm phát thải nhà kính thông qua các nỗ lực hạn chế suy thoái rừng.
Ông Sơn cũng kiến nghị các bộ ngành tham mưu cho chính phủ sớm có khung khổ pháp lý cho vấn đề này để tỉnh có thêm phần nguồn lợi từ phát hành chứng chỉ các bon để hỗ trợ người dân, từ đó phát triển rừng bền vững.
Cũng tại Diễn đàn, theo ông Hoàng Quốc Khánh, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Lào Cai thẳng thắn nhìn nhận là “năng lực kết nối giao thông, bao gồm cả trục dọc và trục ngang còn nhiều hạn chế, hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, mới chỉ nghiêng về giao thông đường bộ (nhưng cũng chưa hoàn chỉnh, mới chỉ hình thành một số tuyến cao tốc như: Nội Bài – Lào Cai, hay Hà Nội – Thái Nguyên…)”, dẫn đến tình trạng các địa phương trong vùng như những người hàng xóm “gần nhà xa ngõ”, muốn từ Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên đến Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ nhanh nhất chỉ có cách đi về Hà Nội rồi quay ngược lại vì thiếu trục giao thông ngang kết nối giữa hai địa phương…. những điều đó đã ảnh hưởng lớn đến cơ hội giao thương, xúc tiến đầu tư của các tỉnh trong Vùng.
Ông Khánh cho biết, tỉnh Lào Cai xác định để trở thành trung tâm liên kết thì phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông là một trong những lĩnh vực đột phá. Theo đó, Lào Cai đã tập trung nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, đến nay có thể nói tỉnh Lào Cai là một trong những địa phương có mạng lưới giao thông thuận lợi, đa dạng.
Tuy nhiên, để hiện thực được mục tiêu xây dựng Lào Cai thành trung tâm kết nối giao thương kinh tế giữa Việt Nam và các nước ASEAN với vùng Tây Nam, Trung Quốc, đồng thời tạo động lực phát triển mạnh mẽ hơn cho khu vực Trung du, miền núi Bắc Bộ theo tinh thần của Nghị Quyết 11 của Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch thường trực tỉnh Lào Cai kiến nghị với Chính phủ quan tâm chỉ đạo đẩy nhanh việc triển khai các dự án lớn về hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không để thúc đẩy liên kết vùng.
Thứ nhất, đầu tư dự án đầu tư đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai đoạn Yên Bái – Lào Cai theo quy mô 04 làn xe vào năm 2023 và hoàn thiện quy mô 06 làn xe theo Quy hoạch mạng lưới đường bộ đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào năm 2030, do đây là tuyến đường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của tỉnh Lào Cai cũng như khu vực Tây Bắc. Trong khi đó, đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai đoạn Yên Bái – Lào Cai chỉ có quy mô 02 làn xe nên còn nhiều bất cập, tiềm ẩn các nguy cơ mất an toàn giao thông, tốc độ khai thác thấp làm giảm hiệu quả khai thác và chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế của tỉnh Lào Cai nói riêng cũng như của các tỉnh khu vực Tây Bắc nói chung.
Thứ hai, hỗ trợ tỉnh Lào Cai hoàn thành và đưa vào khai thác cảng hàng không Sa Pa đặt tiêu chuẩn cảng hàng không cấp 4C, công suất 3,0 triệu hành khách/năm trước năm 2030. Phó Chủ tịch tỉnh Lào Cai nhấn mạnh: “Cảng Hàng không Sa Pa được đầu tư, đưa vào hoạt động sẽ có sức lan tỏa rất lớn đối với tỉnh Lào Cai nói riêng, khu vực Tây Bắc và cả nước nói chung, từng bước góp phần hoàn thiện hạ tầng giao thông, thúc đẩy liên kết vùng của Lào Cai với các địa phương của Việt Nam và vùng Tây Nam rộng lớn của Trung Quốc.”
Thứ ba, sớm cho nghiên cứu quy hoạch dự án đường sắt Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng khổ đường 1.435mm, vì đây là tuyến đường có ý nghĩa rất lớn đối với việc kết nối vận chuyển, giao lưu, thúc đẩy kinh tế giữa các tỉnh vùng duyên hải Bắc bộ, khu vực Hà Nội và các tỉnh khu vực Tây Bắc. Đồng thời, kết nối vận tải đường sắt với Trung Quốc và từ đó kết nối với đường sắt các nước Á – Âu.
Thứ tư, hoàn thành xây dựng tuyến nối đường cao tốc Hà Nội – Lào Cai với Hà Giang (CT.12) theo quy mô 4 làn xe. Nghiên cứu giải pháp huy động nguồn lực để triển khai sớm cao tốc Bảo Hà (Lào Cai) – Lai Châu (CT.13) theo quy mô 04 làn xe.
Thứ năm, hoàn thiện các tuyến quốc lộ gồm: QL.70, QL.4, QL.4D, QL.4E, QL.279 và các tuyến quốc lộ kết nối với các tuyến quốc lộ đi qua tỉnh theo quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, cải tạo, nâng cấp hạ tầng giao thông kết nối giữa Lào Cai với các trung tâm kinh tế lớn của vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ.
Đồng tình với các quan điểm trên, nhiều chuyên gia cũng chỉ ra vấn đề hạ tầng giao thông và logistics còn hạn chế, chưa phát triển công nghệ chế biến nông lâm sản, sự chồng chéo trong các chính sách quản lý và thủ tục hành chính còn phức tạp… là những thách thức lớn đang cản trở tốc độ trưởng của vùng. Cùng đó là sự thiếu liên kết giữa các địa phương, doanh nghiệp trong thu hút đầu tư, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Tổng kết tại Diễn đàn, ông Hoàng Quang Phòng – Phó Chủ tịch VCCI khẳng định “Đây là vùng có tiềm năng để phát triển, nhưng sự liên kết còn chưa được chặt chẽ, sự phối kết hợp chưa được nhịp nhàng và kết quả chưa được như mong muốn, vai trò của doanh nghiệp chưa thực sự được phát huy sâu do nhiều vấn đề”.
Thông qua Diễn đàn, VCCI sẽ chắt lọc ý kiến của các chuyên gia, diễn giả và truyền đạt đến các cơ quan có liên quan về sự phát triển của vùng, những khuyến nghị cụ thể về hạ tầng, kết nối, thành lập các trung tâm cùng những vấn đề khác trong vùng cần được khơi dậy và có sự đầu tư một cách thỏa đáng. Về phía doanh nghiệp, cần nghiên cứu chuyên sâu và làm việc với các tỉnh thành trong khu vực để có quyết sách phù hợp. Nếu chần chừ, chúng ta có thể mất cơ hội.