Cân nhắc một số nội dung về đánh giá, xếp hạng uy tín của nhà thầu
Góp ý Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu, VCCI đề nghị cân nhắc một số nội dung về đánh giá, xếp hạng uy tín của nhà thầu,…
Theo đó, ngày 01 và 02/11/2023, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã phối hợp với Cục Quản lý Đấu thầu, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức Hội thảo lấy ý kiến doanh nghiệp đối với Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu (Dự thảo).
Trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, góp ý về quy định đánh giá, xếp hạng uy tín của nhà thầu, chất lượng hàng hoá sử dụng, bên cạnh Điều 17.2.n Dự thảo quy định một trong các yếu tố sử dụng để đánh giá uy tín nhà thầu là công tác bảo hành, sửa chữa, Điều 17.5 Dự thảo quy định việc đánh giá, xếp hạng. VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc một số nội dung như:
Điều 17.5.a Dự thảo quy định bộ phận phụ trách trực tiếp công tác quản lý hợp đồng thuộc chủ đầu tư. Không rõ bộ phận này có đủ năng lực để đánh giá nhà thầu hay không? Điều 17.8 Dự thảo quy định về đánh giá lại, vậy chi phí lập hội đồng đánh giá hoặc thuê đơn vị đánh giá, kiểm định được quy định như thế nào?;
Điều 17.5.b Dự thảo quy định thời gian hoàn thành việc đánh giá tối đa 6 tháng kể từ ngày kết thúc thực hiện gói thầu. Tuy nhiên, thời gian bảo hành với hạng mục công trình xây dựng, theo Điều 28 Nghị định 06/2021/NĐ-CP, là không ít hơn 12 tháng. Do đó, việc đánh giá chất lượng bảo hành tại thời điểm tối đa 6 tháng là không thể thực hiện được. Thời điểm phù hợp nhất phải bắt đầu sau thời gian kết thúc nghĩa vụ bảo hành.
Cùng với góp ý đã nêu, về thanh toán chi phí mua thuốc, hóa chất, vật tư xét nghiệm, thiết bị y tế cho cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân, Điều 94.1 Dự thảo quy định cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân sử dụng thuốc thuộc danh mục quỹ bảo hiểm y tế chi trả sẽ được quỹ chi trả dựa trên 3 căn cứ: giá trúng thầu tại cơ sở khám, chữa bệnh công lập tuyến tỉnh, trung ương; giá trúng thầu tại cơ sở khám, chữa bệnh cùng cấp chuyên môn kỹ thuật trên cùng địa bàn; giá trúng thầu tại cơ sở khám, chữa bệnh công lập tuyến tỉnh, trung ương hoặc cùng cấp chuyên môn trên địa bàn lân cận hoặc trên địa bàn TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, theo phản ánh của doanh nghiệp, các căn cứ trên chưa bao quát hết các trường hợp có thể xảy ra trong thực tế. Bởi trên thực tế, thuốc còn có thể được đấu thầu tập trung quốc gia, tập trung địa phương hoặc đàm phán giá; và giá thuốc trúng thầu sẽ là giá đấu thầu tập trung quốc gia, tập trung địa phương hoặc giá từ kết quả đàm phán giá. Khi không có các loại thuốc từ các hình thức đấu thầu này, các bệnh viện mới chủ động đấu thầu thuốc và có giá trúng thầu làm căn cứ như tại Dự thảo.
Do vậy, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu, bổ sung thêm giá trúng thầu từ kết quả mua sắm tập trung quốc gia, tập trung địa phương, đàm phán giá làm căn cứ thanh toán chi phí cho các cơ sở y tế tư nhân.
Về thông tin uy tín về nhà sản xuất, Điều 16.1.e Dự thảo quy định cơ sở dữ liệu quốc gia về nhà thầu sẽ bao gồm cả thông tin về uy tín của nhà sản xuất, trong đó bao gồm cả hành vi hạn chế cạnh tranh. Theo VCCI, nhà sản xuất không phải là một bên trong quá trình đấu thầu, và dù đã có cơ chế hợp đồng nhưng đây vẫn chỉ là cơ chế dân sự, trong một số trường hợp, vẫn không tránh khỏi tình trạng nhà phân phối có các hành vi vi phạm trong hoạt động đấu thầu, có thể dẫn đến nhà sản xuất bị đánh giá trong cơ sở dữ liệu quốc gia.
Vì vậy, để đảm bảo đánh giá khách quan và công bằng cho nhà sản xuất, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc: quy định rõ các hành vi mà nhà sản xuất có trách nhiệm liên quan và sẽ bị đánh giá trong cơ sở dữ liệu nhà thầu; cho phép nhà sản xuất hoặc đại diện của nhà sản xuất được phản hồi/có ý kiến về đánh giá trước khi được đăng tải lên cơ sở dữ liệu.
Bên cạnh đó, về yêu cầu kỹ thuật trong hồ sơ mời thầu, Điều 23.2 Dự thảo quy định cấm hồ sơ mời thầu không được có điều kiện nhằm hạn chế sự tham gia của nhà thầu hoặc tạo lợi thế cho một số nhà thầu gây sự cạnh tranh không bình đẳng.
Tuy nhiên, theo phản ánh của doanh nghiệp, nhiều gói thầu có tính chất đặc thù nên cần có yêu cầu về chất lượng kỹ thuật, chẳng hạn như gói thầu mua thiết bị y tế, nhưng bên mời thầu có tâm lý e ngại khi nêu chi tiết các thông số kỹ thuật, yêu cầu công nghệ vì lo sợ vi phạm nội dung hạn chế cạnh tranh này.
“Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung hướng dẫn rõ ràng hơn về điều kiện gây hạn chế cạnh tranh hoặc chỉ ra một số trường hợp điều kiện hạn chế sự tham gia của nhà thầu nhưng không bị coi là cạnh tranh không bình đẳng”, VCCI góp ý.
Ngoài những nội dung đã nêu, góp ý cho Dự thảo, VCCI cũng đề nghị cơ quan soạn thảo xem xét, cân nhắc một số nội dung liên quan đến: Gia hạn thời điểm đóng thầu (Điều 122.7 Dự thảo); Điều chỉnh thời điểm mở thầu (Điều 122.7 Dự thảo); Số lượng nhà thầu có thể tiến hành thương thảo (Điều 122.9 Dự thảo); Giá chào thấp khác thường (Điều 122.16 Dự thảo); Ưu đãi với doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (Điều 8.1 Dự thảo);…